TRONG QUỐC ĐỘ ĐỨC NHỮNG NHÀNH PHẬT GIÁO NẢY
NỞ XANH TƯƠI
Phật giáo tại Đức nhân Hội nghị của
Liên hội Phật giáo Đức năm 2001
Nguyễn-Khắc Tiến-Tùng
Phật giáo được truyền vào Đức từ mấy
thế kỷ trước qua con đường t́m hiểu nặng về kiến thức nhiều hơn khởi điểm ở ḷng
tin. Hiện nay Phật giáo rất đa dạng ở dất nước này.
Tại nhiều trường đaị học Phật giáo được giảng
dạy như một môn học chính có thể tốt nghiệp tiến sĩ đ̣i hỏi thông thạo cổ ngữ
như chữ Hán, Sanscrit hay Pali. Giới khoa bảng từ sau
Schopenhauer (1788-1860) vẫn tiếp tục nghiên cứu đạt được nhiều kết qủa đáng
giá, kể cả về mặt phiên dịch kinh điển. Có những chương tŕnh nghiên cứu đặc
biệt, như chương tŕnh cuả Deutsche Forschungsgemeinschaft (DFG), một tổ chức
nghiên cứu khoa học quan trọng hàng đầu của Đức chuyên giúp phương tiện tài
chánh, đang bảo trợ cho việc nghiên cứu, t́m kiếm, phân loại, lưu trữ, chụp lại
các bản kinh Phật vô giá viết trên lá hay vỏ cây rải rác tồn trữ tại những tu
viện hẻo lánh ở Nepal, Tây tạng hay trên triền Hy mă lạp sơn. Công tŕnh này
đ̣i hỏi thời gian mà cũng phải chạy đua với thời gian để tránh sự tàn phá những
di sản tôn giáo và văn hóa vô giá cần được bảo tồn.
Nhưng ở Đức đạo Phật không những chỉ
hiện diện trên b́nh diện nghiên cứu cao siêu mà trong lịch sử Phật giáo tại Ầxứ
sở cuả văn nhân và các nhà tư tưởngẦ (Land der Dichter und Denker) cũng nhiều
người đă t́m được ở Phật giáo một niềm tin, một ngọn đuốc soi đường. Riêng trong
thế kỷ XX nhiều danh tăng Đức đă thiết lập những cơ sở đến nay vẫn c̣n tồn tại
và tiếp tục phát triển. Đa số những cơ sở Phật giáo không mang danh tự viện mà
là những trung tâm tu học ở đó nhiều truyền thống khác nhau được giảng dạy và
những ngướ tham dự đều sống theo giáo pháp ít nhất trong một khoảng thời gian
tu học nhất định. Ở Đức hiện nay có khoảng 570 nhóm Phật giáo, gần 30 tự viện,
trung tâm thiền và cơ sở do chính người Đức lập nên. Tại đây những ai muốn t́m
hiểu đạo có thể đến dự những lớp tu học, những khóa thiền hay những cuộc hội
thảo về các đề tài đượm màu giáo lư hoặc về những ứng dụng thực tế góp phần giải
quyết những khúc mắc của cuộc đời, cũng như của cuộc sống từng cá nhân. Ngoài ra
c̣n có những cơ sở cuả Phật giáo nhiều nước khác sinh hoạt rất tích cực với
trọng tâm bảo tồn tín ngưỡng (Việt nam, Thái lan...) hoặc hoằng dương giáo pháp
(Thiền Nhật bản, Tây tạng...).
Điều đáng ghi nhận là các truyền thống
Phật giáo ở Đức nóí chung nẩy nở bên nhau trong một thái độ cơỉ mở huynh đệ,
phần nhiều các cuộc gặp gỡ đối thoại đêù đâỳ tương kính. Do đó mặc dầu không
phải hoàn toàn không gặp trở lực nhưng việc thành lập Liên hội Phật giáo Đức đă
viên măn và trong nhiều năm hoạt động những thành qủa đă hiển hiện rơ ràng.
Một trong những thành quả đó là việc tổ
chức đều đặn Hội nghị thường niên của Liên hội. Hai năm trước Hội nghị đựơc tổ
chức tại Bá linh. Năm ngoái hội nghị được tổ chức ở Hannover vào dịp Hội chợ
Triển lăm quốc tế 2000 tại một ngôi chùa Việt nam lớn nhất châu Âu, cũng tại
Hannover (với đề tài Thời gian- Trí tuệ- Đời sống) liền sau một hội nghị
Phật giáo khác qui tụ các nhà nghiên cứu đạo Phật ( đề tài:
Phật giáo trong nghiên cứu và cuộc đời
). Cả hai hội nghị đă thành công cũng v́ biết kết hợp khéo léo về thời gian
cũng như tổ chức để những nhà nghiên cứu Phật giáo, các tăng ni Đức thuộc nhiều
truyền thống và Phật tử cùng những người có cảm t́nh với đạo Phật đến tham dự
đông đảo (1).
Năm nay theo
thông lệ Hội nghị thường niên của Liên hội Phật giáo Đức cũng được tổ
chức vào hai ngày thứ bảy,chủ nhật cuối tháng10 dương lịch tại Munich,
thành phố ở miền nam Đức( trước thống nhất được coi như thủ đô
kín đáo thầm lặng của Tây Đức cũ). Chương tŕnh hội nghị đă xong, diễn giả đă
mời và họ cũng đă nhận lời đóng góp. Ban tổ chức đang rộn ràng lo công việc,
từ kêu gọi Phật tử nhận đồng đạo nghỉ đêm đến sưả soạn vườn trẻ cho các vị khách
tư hon đi cùng cha mẹ. Vấn đề ẩm thực do chùa Tâm giác (Việt nam), Munich đảm
nhận. Dĩ nhiên là toàn đồ chay. Dư vị của những món chay đậm đà của Viên giác tự
ở Hannover năm trước vẫn c̣n lưu lại trong kư ức nhiều Phật tử Đức nên ban tổ
chức đă yêu cầu chùa Tâm giác năm nay tiếp tục truyền thống trai soạn Việt nam.
Trong suốt hai ngày hội họp bên ngoài
hội trường các nhà xuất bản sẽ triển lăm và bán sách báo Phật giáo. Ai muốn t́m
hiểu về đạo Phật th́ đây là một cơ hội hăn hữu để đỡ mất th́ giờ mà có thể nhận
ngay được một thư mục cập nhật về các sách báo Phật giáo, rồi nếu cơ duyên đưa
đến cũng có thể gặp và đàm đạo với tác giả một vài cuốn sách vừa xuất bản. Các
truyền thống, các trung tâm Phật giáo trên toàn nước toàn Đức cũng giới thiệu
hoạt động của truyền thống ḿnh qua những quầy thông tin. Nhiều dự án thực hành
hạnh Bồ tát và từ bi tại các nước Phật giáo Á châu để xoa dịu nỗi đau khổ vật
chất cũng được giới thiệu cho quan khách biết. Chen lẫn vào những bài diễn
thuyết và những giờ tranh luận, hội thảo là thời gian (dạy) thiền cho mọi người,
kể cả các quan khách không là Phật tử. Ngoài ra c̣n có những buổi tụng kinh theo
nghi lễ Nhật bản, Tây tạng, Thái lan và Việt nam... và những buổi tŕnh diễn Folklore rất được tán thưởng trong
những năm trước. Năm nay Mông cổ, Tây tạng và Việt nam đảm nhiệm phần này.
Ban tổ chức Hội nghị 2001 đă mời 22
người có thẩm quyền nói về Phật pháp cũng như tham dự ba cuộc tranh luận giữa
đại hội đồng. Đề tài chính của hội nghị là
Những nẻo đường đưa về Tự do Tâm
thức
Tinh yếu của Phật giáo
Trong số những vị tham dự có Hozumi Gensho
Roschi, đứng đầu Thiền viện Tokoji và Trung tâm Thiền quốc tế tại Kyoto, Nhật
bản, đồng thời giảng dạy tại đại học Hanazono, Kyoto. Vị này sẽ nói về Ư
nghiă của Thiền (Nhật bản) trong hiện tại. Một tu sĩ học giả Tây
tạng,Geshe Thubten Soepa điều khiển Workshop Trở về an tĩnh nội tâm
qua sự tôn trọng giá trị tha nhân với phần hướng dẫn thực hành trải rộng
tâm Từ (Metta) do một nữ tiến sĩ Phật tử Đức hướng dẫn. Geshe Thubten Soepa
đă tu học 20 năm tại Tu-viện- đại- học Sera Je với học vị Lharamp, tương tự
như Tiến sĩ Triết học ngoài đời. Bên cạnh hai tăng sĩ Á châu trên c̣n nhiều vị
đến từ châu Âu và châu Mỹ, nhưng năm nay khác với năm ngoái đa số diễn giả là
người Đức(2). Một điều đặc biệt ở những tăng, ni Đức cũng nhân đây nên nhắc đến,
đó là có những vị đồng thời hành và tu đạo theo nhiều truyền thống:
Amoghavajra Karl Schmied, cựu chủ tịch Liên hội Phật giáo Đức, vừa thuộc ḍng
Tiếp hiện của một thiền sư Việt nam, vừa thuộc ḍng Arya Maitreya Mandala do Lạt
ma Anagarika Govinda gốc Đức lập nên. Tương tự như trên là trường hợp của Fumon
S. Nakagawa Roshi, một thiền sư Nhật (Zen-Buddhism) nhưng đă sống trên 20 năm
tại Đức, thuộc truyền thống Soto (do thiền sư Dogen sáng lập ), đồng thời cũng
là một thành viên của ḍng Tiếp hiện.
Ba cuộc tranh luận khoáng đại tại đại
hội giữa các người tham dự và những tăng ni diễn giả (3) gồm những đề tài làm
nổi bật tính đa dạng, khoan dung, cởi mở và tinh thần Bồ tát của Phật giáo Đức
như sau:
Đề tài thứ nhất:
"V́ thế đức Phật mỉm cười" ,
Tinh yếu của giáo lư từ những truyền thống Phật giáo khác biệt.
Đề tài thứ hai: Phật - Bồ tát - A la
hán, những ngả đường và mục đích khác nhau trong đạo Phật.
Đề tài thứ ba:
Dấn ḿnh vào xă hội
Qua ba dề tài ta có thể tưởng tượng Phật giáo Đức như một hồ sen với những đóa
sen muôn vẻ, tuy khác nhau ở một vài chi tiết nhưng đặc tính chung vẫn là hương
- thơm ngát mùi đạo vị. "Đức Phật mỉm cười v́ thế"
,v́ chân lư chỉ có một, đạo pháp chỉ có một. Trong nghị luận giữa đại hội chắc
sẽ có những đóng góp sôi nổi về đạo pháp và thực hành. Có hành giả Đức muốn đạt
quả A la hán giải thoát ngay trong cơi đời này có thể v́ quan niệm thời gian
Tây phương c̣n in sâu trong tiềm thức, việc ǵ cũng muốn kết qủa đến nhanh. Bên
cạnh đó là những người kiên nhẫn hơn, nh́n hiện tại thấy chính ḿnh khó đạt
những tiêu chuẩn để sớm chấm dứt ṿng luân hồi. Họ muốn vừa tu tập, vừa ứng dụng
những tinh hoa của Phật giáo vào cuộc sống, khởi động tâm từ dấn ḿnh làm việc
cho chúng sinh. Phật giáo Đức tuy chưa có những cơ sở lớn như hai tôn giáo
chính ở Đức (Công giáo và Tin lành ), nhưng Phật tử và tăng sĩ các phái vẫn
tích cực đưa đạo vào đời. Chẳng hạn là y sĩ họ dùng thiền để chữa tâm bệnh, góp
phần làm dịu khủng hoảng cá nhân. Là tăng sĩ, Phật tử làm việc trong các tổ chức
tư nhân và nhà nước họ dùng tư tưởng Phật giáo làm vơi đi nỗi niềm sợ chết của
người nằm trong những bệnh viện đặc biệt chờ giờ lâm tử, chờ về một thế giới
huyền bí chưa được một ai mô tả rơ rệt. Một số tăng sĩ Đức dấn ḿnh vào phong
trào bảo vệ môi sinh. Có cả những người hành đạo tại trung tâm thiền, đồng thời
cũng là trung tâm bảo vệ súc vật. Chủ trương bảo
vệ ở đây không có tính cách phô trương
khôi hài kiểu bảo vệ của những người sống dư thừa quá lố lăng, của một số minh
tinh màn bạc, ca sĩ thời thượng nổi danh. Ḷng muốn bảo vệ súc vật ( 4 ) phát
khởi do tâm Từ và do ư hướng áp dụng Phật pháp khi nh́n ṿng luân hồi vô
thủy mà chính chúng sinh Thích ca mâu ni cũng đă là một con thú trong
ṿng chuyển nghiệp. Dĩ nhiên với cố gắng đem đạo vào đời giới Phật giáo Đức vẫn
tiếp tục tích cực thiết lập những chương tŕnh cứu trợ chúng sinh (cho
Bangladesh, Tây tạng, Việt nam v.v...). Tuy là một tôn gíáo chưa nhiều tín đồ
nhưng cho dến nay Phật giáo là một tôn giáo độc nhất ở Đức đă chính thức bày
tỏ lập trường về ứng dụng cuả kỹ thuật gen và vấn đề y giới muốn Ầ
tạo người đồng dạngẦ , trong khi các tôn giáo lớn với bộ máy hành chánh kềnh
càng, với những dè dặt thường lệ vẫn c̣n "mũ
ni che tai".
Đại hội Phật giáo Đức 2001 từ khi dự
định tổ chức cho đến thành qủa thực hiện ở giờ phút này đă thấy nhiều dấu hiệu
thành công, v́ Liên hội Phật giáo Đức đă rút được nhiều kinh nghiệm của những
năm trước và người Đức nói chung rất chu đáo trong vấn đề tổ chức. Kết qủa của
đại hội năm nay sẽ được ghi lại trong tạp chí Những cánh sen (5) và có
thể trong một tuyển tập bao gồm những đóng góp tại hội nghị của tăng sĩ và cư sĩ
Đức cũng như nước ngoài.
Qua những điều tŕnh bày trên, ta nhận
thấy Phật tử Đức tu học theo nhiều truyền thống. Càng quan sát kỹ sẽ càng thấy
Phật giáo tại Đức đa dạng vô cùng. Những người tin Phật ở đây tu học theo
Thiền tông Nhật bản, Tịnh độ tông Trung hoa, theo các nhánh Đại thừa cũng như
Phật giáo nguyên thủy Thái lan, Miến điện; họ tu theo Tây tạng (Lam-rim, tiệm
tu) và thực hành Thiền Minh sát tuệ (Vipassana)... Nhưng dù theo truyền thống
nào th́ cũng vẫn quy nguyên về nguồn tỉnh giác đầu tiên của một chúng sinh vĩ
đại trong lịch sử loài người đă đạt thành Đại ngộ. Ḥa với niềm tin của
họ, có thể nghĩ rằng với cái nh́n bao dung của Bậc Ṭan tri chắc Đức Phật
sẽ mỉm cười
(
6 ) khi thấy Phật giáo Đức trong Đại hội 2001 sẽ khám
phá thêm Những nẻo đường đưa về Tự do Tâm thức (
7 ) để sớm qua
được bờ Giác ngộ bên kia...
Nguyễn-Khắc
Tiến-Tùng
(Tác giả là hội viên Hội Phật giáo Đức. Đă được
đề cử và bầu vào Ban Chấp Hành Liên Hội Phật Giáo Đức nhưng sau từ chối v́ muốn
dành th́ giờ nghiên cứu tại đại học cũng như góp phần tích cực vào việc tổ chức
Đại hội Phật Giáo Đức năm 2002 lần đầu tiên đưa sang Đông Đức cũ.)
Chú thích:
(1) Tường thuật chi tiết về Đại hội của
Liên hội Phật giáo Đức năm 2000 và 2001 sẽ là đề tài của một bài báo khác cùng
một tác giả.
(2) Xem Những khuôn mặt Phật giáo Đức hiện nay,
cùng một tác giả, trong Tín ngưỡng Á châu, số mùa thu 2001.
(3) Khác với năm trước tại đại hội 2001
của Liên hội PG Đức giới đại học chỉ có viện trưởng Viện Ấn độ học, Đại học
Munich, tham dự cuộc tranh luận khoáng đại trên diễn đàn cùng các tăng sĩ Hoa-kỳ
( PG nguyên thủy), Nhật bản (Thiền tông), Tây tạng ( Mật tông).
(4) Xem tập san Những cánh sen (
Lotusblaeter) , Munich ,số 2/2000 với chủ đề Thảo mộc và cầm thú, trong đó - bên
cạnh những bài khác - có :
bài Thảo mộc và cầm thú trong đạo
Phật của Lambert Schmithausen, giáo sư Ấn độ học, Hamburg,
bài Con người, cầm thú và viễn cảm
(Telepathie) ghi lại cuộc đối thoại của Tập san với Rupert Scheldrate, giáo sư
sinh vật học, Cambridge (tác gỉả Giác quan thứ bảy của loài vật) và Lạt ma
Tengyal, đang dạy ở Trung tâm Phật giáo Tây tạng, Hamburg,
bài Cây trong đời đức Phật, của
Werner Liegel, tốt nghiệp kỹ sư, làm việc tại trụ sở Liên hội PG Đức, Munich.
(cây liên hệ trong đời Đức Phật từ lúc sinh ra, thành đạo và cho đến khi
nhập niết bàn - Ng.Kh.T.-Tùng)
(5) Tập san Những cánh sen (Lotusblaetter) của Liên hội Phật giáo Đức , xb mỗi
năm 4 kỳ, với số I /2001 tập san vừa kỷ niệm xb số thứ 50, năm thứ 15.
(6)
Đề tài của hội nghị
(7)
Đề tài của hội nghị
|