BÁT TƯƠNG QUẢ CÀ

NGUYÊN NHUNG

 

Năm tôi lên sáu tuổi th́ thầy tôi mất, cái tuổi lên sáu quá bé bỏng chưa biết thế nào là buồn là vui, chỉ biết là năm ấy, theo chuyến tàu cuối năm năm một chín năm tư, mẹ tôi đầu đội khăn trắng, lếch thếch dẫn ba đứa con dại, đứa lớn mới hơn mười tuổi, dắt díu nhau theo đoàn người di cư lên chiếc tàu há mồm của Mỹ, tiến vào miền Nam xa xôi.

Năm ấy mẹ tôi mới ba mươi tám tuổi, vừa mất chồng lại mất luôn cả một cơ nghiệp khá vững vàng mà thầy mẹ tôi đă gầy dựng gần hai mươi năm, thế mà có một ngày đă mất hết, xem ra mọi thứ trên đời này chẳng có ǵ bền vững cả. Bây giờ th́ chỉ có ḿnh mẹ tôi gánh vác, mà giữa nơi đất lạ quê người, lúc lớn lên, tôi mới thấy rằng mẹ tôi quả là một người đàn bà có nhiều nghị lực.

Tôi cũng không nhớ được khuôn mặt của thầy tôi, h́nh ảnh của ông chỉ là những phần rời rạc, chắp vá theo những câu chuyện do mẹ tôi kể lại, từ các anh chị lớn trong nhà, tùy theo kư ức của từng người, tôi có một cái nh́n rất mơ hồ về người cha của ḿnh, vậy mà không hiểu sao ḷng vẫn ngậm ngùi mỗi khi nhắc lại.

Lúc ấy tuy c̣n nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ mường tượng ngôi nhà gạch hai gian ở phố Cửa Tiền, có một cửa hàng bán thuốc lào và tạp hóa khá đông khách của thầy mẹ tôi. Về mùa đông khi cây bàng trước cửa nhà đă trơ trụi lá, tôi vẫn được mẹ ủ ấm trong mấy lớp chăn bông. Buổi sáng khi cả nhà cùng thức dậy, tôi vẫn nghe tiếng ho của thầy tôi và mùi cháo đậu xanh từ dưới bếp phả lên nhà trên, bữa cháo điểm tâm thường chỉ ăn với đường hoặc cà bát ngâm tương. Bên cạnh nhà là một quán phở, theo cái lạnh của gió đông, mùi phở cùng với hương hành ng̣ tỏa lên thơm phức làm cồn cào những cái bụng đói. V́ là con út nên thầy tôi cưng tôi lắm, hôm nào phần ăn sáng cũng là một bát phở nhỏ và ly sữa nóng.

Thích nhất là những sáng chủ nhật được theo mẹ đi nhà thờ, từ phố Cửa Tiền phải đi ṿng qua phố Cửa Hậu. Thuở nhỏ, mắt tôi bé lắm nên nh́n cái ǵ cũng to cả, bởi vậy mà ngôi nhà thờ lúc ấy đối với tôi quả là vĩ đại, một chiếc cột đến mấy ṿng tay ôm, mấy chục năm sau trở lại quê nhà, tôi thấy nó nhỏ bé và cũ kỹ, chỉ c̣n dăm cụ già rỗi răi ngồi ŕ rầm đọc kinh, với những con chim sẻ nhảy nhót trên chiếc sân xi măng loang lổ. Mỗi buổi sáng chủ nhật của những ngày ấu thơ, tôi được mẹ dẫn xuống khoảng sân rộng trước cửa nhà thờ, ở đấy có một hàng bánh chưng rán. Mùa Đông, giữa một trời đầy giá rét, co ro trong chiếc áo ấm, được một tấm bánh chưng nóng hổi, mùi nhân đậu xanh lẫn trong chút thịt mỡ, chắc chẳng có ǵ hơn.

Vào mùa hè, khi rặng bàng trước cửa đă x̣e ra những chiếc lá to hơn bàn tay người lớn xanh ngăn ngắt, chị em tôi hay chạy chơi trên hè đường để tránh cái ngột ngạt trong căn nhà hầm hập nóng. Dưới bóng cây bàng trước cửa nhà, chúng tôi đă sung sướng thưởng thức bát chè thạch thơm mát lan dần đến tận cuống họng, sau này khi lớn lên ở miền Nam, tôi có cảm tưởng chưa bao giờ được ăn bát chè nào ngon bằng bát chè của quê hương.

Mẹ tôi kể lại rằng, quê thầy tôi ở làng Linh, nơi có những ruộng rau muống nổi tiếng, ít lá, cọng to và mềm, luộc xong nước rau có một màu hồng phơn phớt, dân làng là những người làm ăn, tính toán giỏi. Mẹ tôi ở một làng khác gần tỉnh hơn, con một ông đồ nho, đất văn học, sau này v́ thầy tôi chết sớm, đám con cái ảnh hưởng bên ngoại, thích văn chương, cho nên không thấy ai giàu cả, nhưng đời sống vẫn rất dồi dào nhờ cái phong phú của tâm hồn.

Mùa hè cho chí mùa đông, trên mâm cơm nhà tôi dù có cá có thịt, nhưng vẫn không thể thiếu bát tương quả cà. Đĩa đậu phụ chiên vàng nóng hổi chấm đẫm tương, con cá rô rán tới thơm phức mà không có tí tương sẽ trở nên vô vị, ngay cả đĩa rau muống luộc xanh ngắt, nếu không có bát tương và mấy khoanh ớt đỏ xem chừng đă nhạt nhẽo lắm. Chưa kể món tương chưng với thịt mỡ, cà chua, th́a là, ăn kèm với rau diếp thái sợi, một tô nước rau muống luộc, giầm thêm mấy quả sấu chua, cùng tí tỏi và muối, ăn với cà bát ngâm tương của mẹ tôi vào những ngày hè, kỳ diệu thay, nó như làm dịu đi cái nóng bức của mùa hè miền Bắc.

Ngay sau những ngày chia cắt đất nước năm ấy, thầy tôi ốm nặng rồi qua đời. Anh tôi bỏ nhà theo người bác vào Nam từ chuyến tàu trước, măi cho đến cuối cùng khi mẹ tôi quyết định ra đi th́ t́nh thế có vẻ khó khăn lắm rồi. Qua bao nhiêu trạm kiểm soát, mẹ con dắt díu nhau ra đi, lúc ấy hẳn mẹ tôi đă phải có một phấn đấu nội tâm dữ dội lắm, chồng chết, con dại, cơ ngơi, nhà cửa, để rồi chỉ c̣n hai bàn tay trắng, đi đâu, với một viễn ảnh đen tối. Có lẽ chuyến tàu cuối năm năm tư là chuyến tàu buồn thảm nhất trong đời mẹ tôi, những giọt nước mắt ngắn dài khi bỏ lại quê hương, bỏ lại ngôi mộ người chồng chưa xanh cỏ, bên nách ba đứa con nhỏ với những đôi tay non nớt chưa bám nổi cuộc đời. Chúng tôi chẳng biết ǵ, với đôi mắt trẻ thơ th́ đây là chuyến đi xa đầy thú vị, đứa nào cũng thích thú với những viên kẹo được phân phát từ tay những người thủy thủ Hoa Kỳ. Buổi chiều, khi con tàu lênh đênh trên đại dương bao la, biển đă ngả sang màu tím, từng đợt sóng to bằng những cái nhà đuổi nhau trên mặt biển, đám người trên tàu bỗng như sợ hăi v́ thân phận bé nhỏ của con người trước cảnh hùng vĩ của biển khơi.

Vào đến miền Nam, đoàn người di cư được đưa về một khu ngoại ô cách Sài G̣n khoảng hai chục cây số. Chỉ có ngần ấy đường mà dường như đă có một sự khác biệt, Sài g̣n với những ánh đèn giăng giăng, xe cộ tấp nập, người đi lại dập d́u như mắc cửi th́ ở đây, chỉ là những mái nhà tranh vách đất, những con đường gập ghềnh lỗ chân trâu, những ngọn đèn lù mù, lay lắt trong cảnh nghèo của đám người di cư. Vui nhất có lẽ là những buổi chợ sớm, người ta phải dùng cả đèn dầu khi trời chưa sáng tỏ, nơi ấy là nơi người dân hai miền Nam Bắc gặp nhau, tuy cùng một ngôn ngữ mà cách phát âm lại khác biệt, nên vẫn có cảnh người mua, kẻ bán cười ngặt nghẽo với nhau, khi người này không hiểu người kia muốn ǵ. Chợ quê tuy nghèo nhưng cũng đủ thứ thịt thà, cá mắm, cùng những rau cỏ rau trái miền Nam, sau một đôi năm, không hiểu sao không khí ḥa b́nh ấy bỗng mất đi, thỉnh thoảng người ta hốt hoảng bỏ chạy tán loạn v́ một loạt súng vang lên giữa buổi chợ đông, một thây người ngă gục, chiến tranh như đă ḅ dần vào đời sống êm đềm của đồng bào miền Nam.

Mẹ tôi, người đàn bà nhỏ bé và can đảm ấy, đâu có chịu đầu hàng số mệnh, dù giờ đây gần như trắng tay. Anh tôi đi làm xa, chẳng mấy khi về nhà, có lẽ anh ấy không muốn chôn chặt cuộc đời trai trẻ trong cái tăm tối của làng quê. Khi cuộc sống ở đô thị cho ta nhiều cơ hội để tiến lên th́ ở chốn quê mùa này, người ta như sống giật lùi hằng thế kỷ, mảnh vườn, ao cá, lũy tre xanh muôn đời vẫn như một hàng rào để người ta dựa dẫm nhau mà sống, nhưng đồng thời nó cũng lôi kéo con người vào những thứ phiền toái, lẩm cẩm, khe khắt khi con người không cùng một tŕnh độ, sống với nhau quả rất là khó chịu.

Cuộc sống nhàn hạ của những ngày thành phố đă qua, mẹ tôi bắt tay vào cuộc sống mới với rất nhiều cực nhọc. Khi những luống sắn, luống khoai đă vồng xanh, những luống cải non đă đủ để nấu những bát canh suông, mẹ tôi bắt tay qua làm cà, làm tương để bán cho những người quanh vùng. Mẹ tôi làm tương rất ngon, không mặn không nhạt, tôi vẫn nhớ măi mùi âm ẩm của mốc tương và đậu nành rang xay nhuyễn, ḥa với nước muối để ủ tương chờ đến ngày ăn được. Những vại tương, vại cà vàng nâu thẫm lại, nhai ṛn tan với bát cháo đậu mùa hè, nghe cái mát mẻ đă luồn sâu vào t́ vị. Chúng tôi lớn lên sởn sơ như cây cỏ, nhờ bát tương quả cà của mẹ tôi, miếng đậu phụ và con cá chiên ṛn, bát muối vừng cùng những rau cỏ mọc quanh nhà. Thỉnh thoảng vào những chiều nắng xiên khoai, tôi lẽo đẽo theo mẹ gánh đôi thùng tương đi bỏ mối cho mấy cửa hàng quanh chợ. Trên con đường đất gồ ghề, lồi lơm dấu chân trâu, mẹ tôi đi trước, đôi vai bé nhỏ như oằn xuống dưới sức nặng của đôi thùng tương, kĩu kịt, kĩu kịt đi trên con đường vắng. Tôi đi chân đất chạy theo mẹ, hồn nhiên như một con bướm trắng, hai má hồng xinh với đôi mắt ngây thơ. Mỗi khi giao hàng xong, thế nào mẹ tôi cũng mua cho tôi vài chiếc kẹo, ly nước đá nhận của người đàn bà miền Nam bán bên hông chợ.

Sau những lúc bận rộn và làm việc mệt nhọc như thế, mẹ con tôi vẫn có những buổi tối ngồi trông trăng ở mảnh sân vuông trước nhà. Dưới ánh trăng suông, gió vẫn xào xạc trên rặng chuối sau hè, tiếng côn trùng rỉ rả âm âm trong bụi cỏ, mấy mẹ con và vài bà hàng xóm quây quần trên chiếc chiếu trải giữa sân, nghe mẹ tôi kể chuyện. Không biết tại sao mẹ tôi thuộc truyện Kiều lắm thế, những bà hàng xóm nhà quê cứ ngẩn người ra nghe mẹ tôi đọc thơ, rồi truyện làng, truyện nước, truyện ma đường rừng Việt Bắc, truyện nào cũng ly kỳ, rùng rợn và ư vị đến nỗi tôi lơ mơ ngủ đi lúc nào không biết.

Tôi vẫn nhớ mơ hồ về những ngày c̣n thơ ấu, khi chỉ có mấy mẹ con sống quạnh quẽ với nhau trong những ngày mới di cư vào Nam, chứng kiến cái thay đổi của ḷng người sau cơn hoạn nạn, tôi mới thấy ḿnh là người bất hạnh khi thầy tôi chết đi quá sớm. Giá thầy tôi c̣n sống. Đă bao nhiêu lần tôi nghĩ như thế khi thèm thuồng nh́n những đứa nhỏ như ḿnh, chúng nó có đủ cha đủ mẹ, để mẹ tôi không phải tần tảo một ḿnh nuôi lũ con thơ, có khi đi vắng nhà vài hôm, phải gửi con cho người hàng xóm.

Những buổi tối mẹ vắng nhà, khi trời nhập nhoạng lên đèn là tôi bắt đầu khóc. Chị tôi hơn tôi hai tuổi, đă tỏ ra là đứa trẻ biết lo lắng, tính chị hiền như mẹ, hay tủi thân. Mới đầu tôi chỉ khóc dấm dứt, sau không chịu nổi nữa tôi gào to hơn, chị tôi nước mắt đoanh tṛng, thay mẹ dỗ em bằng những lời hứa hẹn rất trẻ con, nhưng cũng chẳng ăn thua ǵ, dỗ măi em cũng không nín c̣n gào to hơn, chị cũng tủi thân ̣a lên khóc. Sau này, lúc không c̣n gần nhau nữa, chị em mỗi lần nhắc lại chuyện cũ trên đường dây điện thoại, hai đứa cứ vừa cười vừa khóc v́ những chuyện ngày thơ.

Nhớ làm sao ngày đầu tiên mẹ tôi dẫn tôi đi học. Trường học là căn nhà lá hai gian có giàn hoa thiên lư, thỉnh thoảng lại có tiếng điếu cày rít lên ṣng sọc, ông thầy già say thuốc ngồi mơ màng gơ nhịp chiếc roi mây trên mặt bàn gỗ, như đệm theo tiếng ê a của đám học tṛ nhỏ. Tôi vừa ngồi học vừa nhớ mẹ, con đường quê ngoằn nghoèo, bụi tre gai rào rào tiếng gió, một con bướm trắng vờn vờn trên giậu mùng tơi, tôi lớn lên với những câu truyện cổ tích và những áng văn chương từ bà mẹ quê vất vả, cũng như những vần thơ tả về quê hương trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của ông thầy trường quê mái tranh vách đất. Sau buổi học, tôi hay chạy sang nhà bác tôi để được bác cho vài quả táo tầu hay nhúm cam thảo, v́ ông là một thầy thuốc Bắc. Giữa trưa hè oi ả, bác tôi ngồi gật gù với mấy hũ thuỷ tinh đựng thuốc, con dao cầu nằm hờ hững ở một góc quầy v́ chẳng mấy khi được đụng đến. Chẳng mấy khi có người đến chữa bệnh, nhưng bác tôi cứ ngồi đấy ngủ gà, ngủ gật trong cái yên lặng của ban trưa. Ngoài kia, giữa nắng trưa tiếng gà eo óc gáy, màu nắng như đă chói chang trên những giây phơi quần áo, tiếng chó sủa vu vơ, gió vẫn ŕ rào qua khóm trúc, tất cả như ch́m vào một nỗi buồn mông lung, khó tả.

Tôi lớn lên ở miền Nam, ăn bát cơm miền Nam, uống nước từ những cái giếng trong vắt sâu hun hút dưới ḷng đá ong, những h́nh ảnh ấy đă gắn bó với tôi tự những ngày thơ ấu.

Măi hơn hai mươi năm sau tôi mới có dịp trở lại quê nhà. Tôi đă đi qua miền Đông đất đỏ với những vườn cao su thẳng tắp, qua miền Trung với những bờ biển xanh, băi cát trắng, rặng thùy dương trải ngút ngàn phô bày một giải giang sơn cẩm tú. Những núi đồi trùng trùng ẩn hiện trong màn sương, những căn nhà vắt vẻo lưng chừng núi, h́nh ảnh người dân quê lam lũ, chất phác, cam chịu một đời nghèo khổ dọc theo những dải đường của đất nước. Đêm trên đỉnh Hải Vân, gió lồng lộng như giao ḥa giữa trời và đất, biển Thuận An với những chiếc thuyền câu giăng giăng ánh đèn như một hội hoa đăng.

Tôi đă vô vàn xúc động khi nh́n thấy những xóm làng của miền Bắc. Lũy tre xanh, chiếc cổng làng cũ kỹ, con đường lát gạch dẫn vào những nếp nhà ngói đỏ, con trâu nằm nhai thong thả bên đụn rơm khô, bếp nhà ai toả lên trời bàng bạc khói sương. Quê hương tôi đó, tuy nghèo khổ nhưng với tôi vẫn là những h́nh ảnh đậm đà trong tâm tưởng. Một ngày chớm thu, tôi đă trở về thăm ngôi mộ của thầy tôi nằm trong một nghĩa trang cạnh ven đê, trên đường về quê ngoại. Tôi nhớ đến thầy tôi mà ngậm ngùi cho một kiếp người, tro bụi lại trở về tro bụi, để thương cho mẹ tôi cả một đời vất vả, chật vật với những đứa con thơ. Nắm hương trên mộ đă tàn, chắc thầy tôi biết tôi trở về, một con bướm trắng cứ chập chờn bay trên vai tôi, rồi lại vờn vờn trên những bông cỏ may trong một chiều thu úa. Không ai có thể biết rằng, từ thế giới bên kia, thầy tôi lại không một lần trở về với tôi trong giấc chiêm bao, dù rất mù mờ và không rơ nét, nhưng qua đấy tôi vẫn h́nh dung ra khuôn mặt của đấng sinh thành.

Mẹ tôi chết ở miền Nam, thầy tôi chết ở miền Bắc, không biết hai người có trùng phùng ở một miền nào đó nơi thế giới bên kia? Nơi mà tôi tin rằng, không có hận thù, đau khổ, thầy mẹ tôi sẽ có một bữa cơm hội ngộ, bát tương, quả cà, bát thịt kho đông trong những ngày giá lạnh.

Năm ấy, tôi đă có một thời gian được sống trong căn nhà thân yêu của thầy mẹ tôi. Vào mùa thu, những cơn mưa ngâu dầm dề như để chuyển tiếp một mùa hè nóng bỏng sang một mùa thu dịu dàng hơn. Tuy vậy, khi nh́n những cơn mưa đổ xuống ngày đêm, ai cũng lo có lụt lớn. Mà lụt thật, nước mênh mông khắp các ngả đường như sông rạch miền Nam, tràn vào nhà đến hơn nửa thước, mọi người phải đi lại trên bàn hay những tấm ván.

Chưa bao giờ tôi chán đến thế, suốt ngày quanh quẩn trên căn gác nhỏ, nghe những giọt mưa rào rào trên mái ngói cũ kỹ, khoảng sân xi măng lộ thiên trên gác ướt sũng. Bầu trời lúc nào cũng ảm đạm, tiếng mưa rơi, tiếng gió rít, tiếng ŕ rào của rặng sấu Tây sau vườn tạo nên một âm thanh áo năo ḷng người. Trên đường phố, người ta bơi thuyền như đi trên sông, người ta í ới gọi nhau chạy lụt, tạo nên một quang cảnh hoảng loạn và bi đát. Buổi chiều nhuốm một nỗi thê lương, nằm trong căn gác nhỏ tù túng, chưa bao giờ tôi nhớ miền Nam đến thế. Trong bóng tối nhập nhoạng của buổi hoàng hôn, đứa cháu tôi vừa hát bài "Giọt mưa thu", vừa gơ nhịp lên chiếc thùng sắt tây, trong nhà đă lên đèn, điện cúp, gió đă giựt đứt đường giây điện của nhà máy thủy điện Sơn Tây. Trong ánh sáng mờ mờ của buổi hoàng hôn, th́ lạ thay, một con bướm, tôi cứ ngỡ đấy là linh hồn của thầy tôi đang nương theo cánh bướm về thăm nhà. Tôi nh́n con bướm đậu gần chiếc ảnh gia đ́nh treo trên vách, ḷng b́nh yên một cách lạ lùng. Suốt đêm hôm ấy mọi người hầu như đều thắc thỏm chờ cơn băo tới, nhưng chỉ nghe tiếng mưa rơi rích rắc trên mái ngói và tiếng cành lá ŕ rào từ khoảng sân sau.

Đêm qua đi thật nặng nề trong sự chờ đợi của mọi người, sáng hôm sau nắng lên, trời quang mây tạnh, nước không lên mà có vẻ muốn rút, mọi người đều mừng rỡ. Mấy ngày sau nước rút, tôi lóp ngóp lội nước ra bến xe mua vé về Hà Nội, sau đó mua vé tàu về Nam. Đêm giă từ Hà Nội, cả nhà người anh tiễn ra ga Hàng Cỏ, chúng tôi lên tàu xuôi Nam, ḷng ngậm ngùi v́ biết khó có lần trở về thăm quê, khó có lần được nh́n thấy nấm mộ của thầy tôi. Khi hai chị em đă lên tàu, con tàu sắp sửa chuyển ḿnh ra ngoài vùng ngoại ô, chị tôi chỉ lên bức vách của toa tầu, giọng thảng thốt: "Ḱa, trời ơi, con bướm."

*    *    *

Không biết thầy mẹ tôi có nợ nần oan khiên ǵ với đất nước của tôi, dân vốn đă nghèo lại hay chia rẽ. Cha tôi qua đời vào thời kỳ đất nước chia hai, gia đ́nh tan tác. Đến khi mẹ tôi chết, lại cũng là những năm "gạo châu củi quế", con cái đều nghèo, không đến nỗi bữa đói bữa no, nhưng đời sống thật là đạm bạc, lúc mẹ nằm xuống, không có ǵ để mang về bên kia thế giới.

Trước khi mẹ tôi qua đời độ một tháng, chị em tôi có về thăm mẹ. Mẹ tôi gầy lắm, không đi được nữa, căn bệnh già và mấy thứ thuốc bổ dưỡng Dân Tộc không làm bà khoẻ hơn, cứ từ từ xụm xuống rồi lưng cong lại, không đứng dậy được. Bây giờ tôi mới biết đó là chứng loăng xương của tuổi già, do lao lực nhiều năm tháng chồng chất lên trong đời mẹ tôi. Thời buổi ấy chỉ nghĩ đến cơm ngày hai bữa, đâu có ai chú ư đến sự săn sóc , bồi dưỡng cơ thể để sống lâu, sống khỏe như bây giờ.

Mẹ tôi tỉnh cho tới lúc chết, nằm trên giường nhưng vẫn nhắc cho heo ăn, gà ăn, thấy ngả bóng chiều lại nhắc cho gà lên chuồng, đem quần áo ngoài sân vào nhà v́ sợ sương đêm, trời mưa nhắc hứng nước đầy lu hũ để dành uống. Không biết mẹ tôi lo chuyện đời làm chi cho cực thân, chẳng qua cái ḷng của người mẹ lúc nào cũng băn khoăn lo cho con cháu từng ly, từng tư cho tới chết.

Những ngày cuối cùng nằm trên giường bệnh, mẹ tôi bảo chị em tôi khuân chiếc rương gỗ cũ kỹ, trong ấy có một số quần áo của mẹ tôi ít khi xỏ tay tới, và những đồ vật cùng h́nh ảnh mẹ tôi đă nhặt nhạnh được trong nhà rồi đem cất vào đấy. Trong số nhữnng đồ vật lặt vặt ấy, có chiếc khăn voan màu đen tôi mua cho mẹ đă lâu, mẹ tôi dùng nó để gói những món nho nhỏ khác, có cây thánh giá mạ vàng . Nhắc tới cây thập giá này tôi lại nhớ tới chị tôi, đó là món quà Giáng Sinh chị đi học xa, không về nhà được, nhưng vẫn gửi quà cho cô em bé bỏng, út a út ít của ḿnh. Những món quà thời thơ ấu chỉ có một cái quạt nhựa xoè ra bằng bàn tay, một con búp bê rẻ tiền cũng chỉ độ gang tay, và cây thánh giá mạ vàng khoảng một tấc. Tôi dạo ấy c̣n bé, nên chỉ thích con búp bê bà chiếc quạt nhựa, không thiết ǵ đến cây thập giá mạ vàng kia, nhờ vậy mà nó mới c̣n đó, trong cái rương cũ kỹ của mẹ tôi.

Khi nh́n thấy cây thánh giá mạ vàng, trong tôi như sống lại những kỷ niệm thời thơ ấu, t́nh chị em khắn khít với nhau qua cây thánh giá mạ vàng vẫn c̣n kia. Mẹ tôi bảo tôi đưa cho bà cây thánh giá , kỷ niệm từ hồi tôi lên mười. Chúng tôi lớn dần lên, ra khỏi nhà, vứt lại cho mẹ tôi những món kỷ niệm nho nhỏ, mấy tấm ảnh cũ, mẹ tôi như "ông từ giữ đền", ngồi gom góp nhặt nhạnh những kỷ niệm của các con, thậm chí có khi là những lá thư của bạn bè gửi cho nhau thời đi học. Chúng tôi cứ phủi tay mà đi, hờ hững với tất cả kỷ niệm của dĩ văng.

Thề rồi mẹ tôi nhắm mắt ĺa đời vào đầu một mùa hè tháng Năm hoa phượng trổ. Khi chôn cất mẹ xong, chị em tôi ở lại vài ngày, vẫn hay hụt hẫng khi nh́n vào chiếc giường nhỏ của mẹ, chỗ mẹ nằm và tưởng như mẹ vẫn c̣n đó. Thế là hết một kiếp người. Đêm đầu tiên ngồi cầu kinh cho mẹ, có con bướm đêm bay vào nhà đậu trên bàn thờ, quấn quưt dưới ngọn đèn dầu leo lét. Tôi nói với chị tôi cầu nguyện cho mẹ đi b́nh yên, đừng quấn quưt cơi đời khổ đau tạm bợ này. Biết mẹ tôi thích nghe tôi hát, lúc ấy trong căn nhà miền quê giữa khu vườn đầy bóng cây âm u, thỉnh thoảng nghe tiếng chim kêu dưới mảnh trăng khuya vừa nhô lên trên nền trời đen thẫm, tôi đă nghẹn ngào hát bài "Ḷng Mẹ" mà nước mắt tuôn ướt đầm mặt gối.

T́nh cờ chị em tôi lục lọi trên chiếc kệ gỗ, mới ṃ ra hai chiếc áo cũ của mẹ tôi c̣n sót lại. Một chiếc áo cánh nâu bằng vải ngắn tay và chiếc áo dài soa Thái Lan màu cánh dán đă cũ, có khi chưa kịp giặt rồi mẹ tôi ốm nặng, xếp vào đấy rồi quên bẵng đi. Nh́n thấy hai chiếc áo cũ của mẹ c̣n bỏ lại, hai đứa con gái như bắt được vàng, khi mẹ tôi chết rồi tôi mới biết trân quư những ǵ của mẹ để lại dù nó rất tầm thường. Chị tôi lấy chiếc áo cánh nâu đă bạc cả hai vai, nhường cho tôi chiếc áo dài soa Thái Lan, lưng áo đầy chấm thâm kim v́ có lẽ đă ướt mồ hôi của mẹ tôi, khi đi nhà thờ về bà cởi ra rồi treo lên đó.

Chiếc áo cánh màu nâu đă bạc hai bên vai, tấm thân gầy g̣ của mẹ như c̣n in lên lằn vải những nếp nhăn ở hai bên nách, túi áo c̣n đầy dấu kim băng mẹ tôi hay cẩn thận gài v́ sợ rơi mấy đồng bạc lẻ, và xâu tràng hạt bằng đá. Chiếc áo dài cũng đă cũ, những đường chỉ luồn trên vạt áo cũng bạc màu thời gian. Theo năm tháng cuộc đời cái ǵ cũng tàn phai cả, chẳng giữ lại được ǵ. Hai chị em vùi mặt vào hai tấm áo cũ của mẹ, thút thít khóc.

Mẹ tôi về với cha tôi ở thế giới bên kia lâu rồi, lâu lắm rồi, chỉ c̣n để lại trần gian hai tấm áo cũ cho hai đứa con gái, mà mỗi đứa lại ở một phương trời cách biệt xa nhau nửa ṿng trái đất. Tôi quên hỏi chị tôi về tấm áo cánh nâu của mẹ có c̣n không? Riêng tôi đi đâu cũng đem theo chiếc áo dài màu cánh dán đă thâm kim v́ những giọt mồ hôi của mẹ trên lưng áo. Tôi có cắt cho người chị lớn một mảnh nhỏ, chị em chia nhau gia tài của mẹ, ḷng vẫn bồi hồi thương nhớ.

*   *   *

 Vâng, chỉ thế thôi, bát tương, quả cà của mẹ tôi đă nuôi nổi lũ con thành người, người đàn bà quê mùa nhưng rất nhiều nghị lực đă cam chịu một đời vất vả để cho các con được vươn lên, thoát cảnh bần cùng và tối tăm của đời sống. Anh em tôi trôi nổi mỗi người một phương, dĩ văng chỉ c̣n là những h́nh ảnh mịt mờ, nhưng dễ ai đă quên. Chỉ biết là mỗi lần nhớ đến cha mẹ, th́ bát tương, quả cà vẫn là nỗi nhớ không nguôi trong ḷng những đứa con lưu lạc. 

NGUYÊN NHUNG

                        

Asia-Religion.net