Tôn giáo và Thẩm mỹ học BÀN
VỀ CÁI ĐẸP Trời
cho tôi đôi tay hết sức vụng về, và một
khối óc không nhớ nổi h́nh ảnh và màu sắc,nên
tôi không tài nào mà học vẽ nổi. Trông một h́nh
đă có sẵn; mất th́ giờ, vẽ đi vẽ
lại; tẩy đi tẩy lại; th́ đại khái
vẽ cũng c̣n tạm được. Nhưng nếu
bắt vẽ thuộc ḷng, vẽ tưởng tượng
một người, th́ ôi thôi! tai không biết cắm vào
chỗ nào, tay không biết gắn vào đâu; muốn
vẽ ngựa, th́ lại hao hao giống con chó. Quay sang
học đàn học hát: Kết quả cũng tương
tự: học dương cầm th́ không chịu học
đổi ngón tay; mắt cứ thích trông trộm vào phím
đàn; gặp dấu trắng th́ thích đánh nhanh;
gặp dấu cờ lại ưa đánh chậm; gặp
dấu 2, 3 cờ th́ tự động đầu hàng. Thành
thử bản đàn nào, dẫu của Mozart, Beethoven hay
của Gounod, của Chopin hay của Bach cũng vẫn mang
thêm nhăn hiệu của tôi, v́ vậy mà không sao ḥa
tấu với ai được. Tưởng có tài hát, tôi
quay sang học hát. Mọi người trầm trồ khen
tiếng tôi hơi chua, và hát thường hay sai khoảng
chừng gần nửa dấu. Đă vậy mà c̣n gặp
những Do#, Re#, hay Si th́ quả là tai hại. Tôi vẫn
nghĩ rằng nếu có khi nào mà có đài truyền h́nh
nào vô phúc mời tôi hát một bản th́ ngày ấy,
chắc chắn các khán, thính giả sẽ tự động
đổi đài, và đài chuyến h́nh mời tôi ca
sẽ hối hận vô cùng. Tuy nhiên, trông
bức tranh đẹp, tôi cũng thấy ngay đó là
bức tranh đẹp. Cái óc
thẩm mỹ này, tôi được trời phú cho ngang
với các ông già, bà lăo hay, các thanh thiếu niên từ quê
đến tỉnh. Không cho
biết vẽ, không cho biết đàn hát, nhưng lại
cho biết thích xem tranh thích nghe đàn hát như ai; nghĩ
ra mới thấy rằng ông Trời thiệt đă ưu
đăi tôi. Tôi không vất vả ǵ, mà đâu đâu cũng
nh́n thấy cái đẹp, v́ cái đẹp cái hay, ông
Trời đă cho nó tung tỏa từ trong ḷng tôi cũng
như từ trong ḷng bạn từ khi mới chào đời. Tính tôi
lại dễ dăi, “lừng chừng, đại khái tháng
ngày tiêu dao”, theo đúng lời khuyên của Lư Mật Am
trong bài Bán bán ca, nên đi t́m cái đẹp quả là không
có khó. Thực ra tôi
cũng không muốn định nghĩa thế nào là đẹp.
Nhưng quí vị là những bậc thức giả,
những người sành điệu lại cần
biết thế nào là đẹp, v́ sao lại đẹp;
có dài ḍng giải thích, phân tách quí vị mới vừa
ḷng. Tới đây, tôi nhớ đến chuyện con
“cuốn chiếu”. “Cuốn
chiếu” có rất nhiều chân, tối thiểu cũng
khoảng một trăm chân; người Âu Châu phóng đại
lên cho rằng nó có đến ngàn chân (mille - pattes). Ngày
thường nó ḅ rất mau, rất tự nhiên, không
thắc mắc. Nhưng một hôm có người lại
hỏi nó rằng; khi ngươi ḅ, ngươi khởi
đầu bằng chân thứ mấy, và chân nào tiếp
theo chân nào. “Cuốn chiếu” đâm hoang mang, cứ
tự hỏi khi ḅ, ḿnh đă bắt đầu bằng
chân thứ 2, thứ 5, thứ 10, hay thứ 42? Nghĩ
thế, rồi đâm hoang mang, đâm luưnh quưnh, không c̣n
biết ḅ thế nào cho đúng điệu nữa. Thành ra khi
muốn viết một bài thế nào là CÁI ĐẸP, tôi
lại phải đi t́m xem người xưa đă định
nghĩa thế nào là đẹp, rồi lại đi t́m
ít sách về Nghệ Thuật để đọc; mượn
ít nhiều sách bàn về những cảnh đẹp thiên
nhiên...Tôi thấy tôi đúng là con “cuốn chiếu”. Cho nên, theo
tôi, hay nhất, là cứ mở tâm hồn, mở mắt
ra là thấy cái đẹp nó ở khắp mọi nơi.
Từ xó vườn nhỏ, cũng có những cụm
cỏ, những hoa, những lá, những cành tự động
muốn vươn ra, ngóc lên để đón ánh sáng. Tôi
có một cái vườn nhỏ sau nhà. Cũng có hồng,
có lan, có cúc, có đào, có trúc đào, có dạ lư hương,
có hoa lồng đèn (fuschia); hoa đỗ quyên (azalia), hoa
trạng nguyên (poinsettia) v.v... Các hoa, lá đó cứ âm
thầm mà phát triển. Hoa nào ra cũng đẹp
tuyệt vời: vàng, đỏ, tim, hồng, trắng, tùy
loại, tùy hoa. Cây trúc đào từ hàng xóm rủ sang, cành
sà xuống mái nhà tôi; nhưng trúc đào không v́
khuất trên nóc nhà, mà không nở hoa. Thỉnh thoảng
ít nhiều chim, cũng xuống đậu các cây quanh nhà,
líu lo, ca hát một hồi rồi lại bay đi. Ra
khỏi nhà, đi đến đâu, cũng thấy quanh các
nhà là cỏ, với hoa. Tôi trông thấy rất nhiều
loại cây cảnh ở bên này, rất nhiều loại
mầu sắc, mà không làm sao biết đủ, để
h́nh dung đủ, mô tả đủ được
vẻ đẹp của trời đất. Ngay về màu
sắc, tuy là có năm màu chính theo Đông Phương
(Xanh, đỏ, vàng, trắng, đen), hay bảy màu theo Tây
phương (Tím, Lam, Xanh, Xanh lá cây, vàng, cam, đỏ), nhưng
lúc các đơn sắc nói trên pha trộn lại, th́ có
thể biến thành mấy trăm màu, thành thử
muốn bàn về Cái Đẹp, tôi nghĩ cũng nên bàn
qua về màu sắc. Người
Việt ta thông dụng có mấy chục màu như sau: TÍM
(violet) -Hoa
cà (tím, pha tía, pha trắng) (Mauve). CHÀM
(LAM) (Indigo) -Xanh
biển (chàm pha đen) (Ultramarine). XANH
DƯƠNG (Blue) đa
trời (xanh pha trắng) (azure, sky colour) -nguyệt
bạch (xanh pha trắng nhiều hơn) (light blue) XANH
LÁ CÂY (Green). -Rêu
(xanh phớt vàng) (Moss) -Lá
mạ (Rêu pha vàng + trắng) (light green). -Chanh
(Rêu pha vàng) (lemon - coloured) -Hoa
lư (chanh trắng) (light lemon) VÀNG
KIM (yellow) -Mỡ
gà (Vàng pha trắng) (cream) -Ngà
(vàng pha nhiều trắng hơn) (ivory). -Cam
(vàng pha son) (orange). -Hồng
đào (cam + son + trắng) (Peach, salmon). SON
(cam + đỏ) (vermilion). -Hồng
(son + trắng) (rose) -Hung
(son + đỏ ớt + phớt đen) (garnet) -Đà
(son + đỏ + đen nhiều hơn) (terrous; “terre de
Sienne”). -Nâu
(son +đỏ + đen nhiều hơn nữa) (maroon, chesnet
- colour, or brown). Đỏ
(Đỏ ỚT) (Red) (cerise) -Xoan
(đỏ + tía + trắng) (light purple) -Tía
(Đỏ + Tím) (Purple) -hoa
cà (tía + tím + trắng )( mauve) Trong bài Thú
dùng tranh Tết để chúc Tết đăng trong Đất
Nước tôi số 8 Xuân Mậu Th́n, tôi đă cho
thấy người xưa đă phân màu đỏ thành
những màu như hoa hiên, điều, son, cánh quế
thẫm, cánh sen nhạt, phấn hồng, hoa đào...; màu
vàng thành vàng thẫm, vàng nhạt, hoa lư...; màu xanh thành
xanh nhạt màu hồ thủy, hay ḥa b́nh, hay nguyệt
bạch, xanh lá cây, xanh lam. Sau khi
tiếp xúc với Tây phương ta có thêm những màu như
Be (beige) (màu vàng mỡ gà lẫn màu hồng đào và màu
xám); màu kaki (hay Khaki) (màu be hơi ngả về lục); màu
cứt ngựa (reseda) nếu sẫm; ô-liu (olive) nếu
nhạt. Trên đây
chúng ta c̣n thấy thiếu màu đen, màu trắng và màu xám.
Đó chính là v́ tôi đă tŕnh bày theo cách phân màu
của W. Ostwald, tác giả cuốn “Die Farbenlehre” xuất
bản năm 1919 tại Leipzig. Khi ông tŕnh bày các màu, ông
đă dùng hai h́nh nón có đáy chập lại với nhau
ở phía giữa, c̣n hai chóp th́ ở hai bên tả
hữu; chóp tả là màu đen, chóp hữu là màu
trắng; các màu kể trên được xếp theo
một đường dọc thẳng ở chính giữa.
C̣n màu xám, th́ được xếp trên một đường
ngang nối liền hai chóp đen và trắng. Màu xám c̣n
gọi là màu tro (gio), hay màu ch́ loăng. Xám cũng có thể
xám xanh (xám ửng xanh), xám lục (xám ửng lục), hay
xám bồ câu (xám ửng tím). Thực ra cũng
chẳng cần phải biết nhiều màu, mới thưởng
thức được cái vẻ đẹp của
trời đất. Thi hào Nguyễn Du chỉ dùng có năm
màu chính cũng đă làm cho phong cảnh nên vô cùng xinh
đẹp: Cỏ
non xanh tận chân trời, Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa...(Kiều 41-43) ...Tuyết
in sắc ngựa câu ḍn, Cỏ
pha mùi áo nhuộm non da trời.. (Kiều 139-140) ...Nàng
th́ dặm khách xa xăm, Bạc
phau cầu giá, đen rầm ngàn mây...(Kiều 912-913) ...Rừng
thu từng biếc chen hồng, Nghe
chim như nhắc tấm ḷng thần hôn... (Kiều 917-918) ...Người
lên ngựa, kẻ chia bào, Rừng
phong thu đă nhuộm màu quan san... (Kiều 1522-1524) Chúng ta
ngắm cảnh đẹp phải ngắm bằng tâm
hồn, chứ không phải xem xét bằng lư trí. Mendelssohn
cho rằng hễ ta phân tách vẻ đẹp, th́ vẻ
đẹp sẽ biến mất(1). Meier nói: Má mỹ nhân
phải được ngắm bằng mắt trần;
nếu lấy kính lúp mà soi, sẽ mất hết vẻ
đẹp (2). Họa sĩ
kiêm thiền sư, Frederick Franck cho rằng muốn thưởng
thức cái đẹp, phải nh́n thật lâu, ngắm
thật kỹ; và nếu được, vừa ngắm
vừa cố dùng bút mà tô, mà vẽ lại cái cảnh trí
ḿnh nh́n. Nh́n cho lâu lai, ngắm cho kỹ lưỡng cho
đến khi nào cái đẹp của cảnh vật nó
lọt vào cảm quan, tri giác của ḿnh, tung tỏa trong tâm
thần, trí năo ḿnh, và dần dần sẽ tuôn ra trên
ngọn bút; lúc ấy bất kỳ cảnh vật ǵ cũng
trở nên kỳ diệu. Sau khi suy tư về lời khuyên
của họa sĩ Frederick, tôi mới thấy tôi xưa
nay đă nh́n cảnh vật bên ngoài, một cách phớt
qua, hời hợt. Tôi lại ra sau vườn, nh́n lại
những cỏ hoa trong vườn, một cách kỹ lưỡng
hơn. Tôi mới thấy cũng chỉ là mấy cây
hồng quen thuộc, mấy cây hoa lồng đèn (cây hoa
tai: fuchsia) quen thuộc, nhưng nh́n kỹ lưỡng, lâu
lai, quả thấy nó trở nên đẹp đẽ,
trở nên lạ lùng hơn nhiều. Cũng là hoa hồng
nhưng sắc thái lại rất nhiều, tùy như là
sắp nở, đang nở, hay sắp tàn. Những lá
hồng cũng có nhiều màu: cành non th́ đỏ như
da một hài nhi; những lá đă luống tuổi, th́
trở nên xanh đậm; những lá sắp tàn úa, th́
ngả sang màu vàng, hay màu nâu, màu đà. Có lá th́ bị
phủ một lớp bụi trắng, trông có vẻ
bệnh hoạn, như đang trông chờ tôi xịt cho
một chút thuốc trừ rày... Các hoa lồng đèn, cái
th́ tím, cái th́ đỏ, từng chùm, từng chùm, như
những lồng đèn nhật bản tí hon, treo khắp cánh
vườn trong một ngày hội hoa đăng. Tôi
cảm thấy hoa lá như đang thu các màu của ánh sáng
mặt trời, mà những khi vừa mưa, vừa
nắng đă tung ra thành một h́nh cầu vồng vĩ
đại trên khung trời. Tôi càng ngày
càng thấy rằng muốn hưởng cái đẹp
của trời đất, trước hết ḷng ḿnh
phải thanh thản để đón nhận. Nếu ḿnh
đang ưu tư, đang sầu, đang khổ, th́
cảnh sắc bên ngoài dù đẹp đẽ đến
đâu, cũng không làm ta rung cảm được. Cho nên
cảnh sắc bên ngoài chính là tấm gương soi tâm t́nh
ta. Ta vui, cảnh cũng như rộn rịp, ta buồn,
cảnh cũng đ́u hiu. Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu, Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Năm 1960,
tôi có dịp ghé thăm Ba Lê ít ngày. Tôi đi lang thang
khắp nơi, viếng nhà thờ Đức Bà, tản
bộ trên bờ sông Seine, vào dạo chơi nơi vườn
Luxembourg, đi thăm Khải Hoàn Môn, trèo lên đỉnh
tháp Eiffel, trong một đêm trăng sao vằng vặc,
để nh́n bao quát cảnh Ba Lê về đêm, với muôn
ánh đèn màu tản mạn dưới chân; thăm điện
Versailles; điện Pantheon; Hôtel des Invalides; vào bảo tàng
viện Le Louvre, và Guimet; lên khu Montmartre; đâu đâu tôi
cũng thấy cảnh trí bên ngoài như rạo rực
cảm t́nh, như muốn âm thầm đối thoại cùng
tôi; và không bao giờ tôi thấy hồn thơ, sóng
nhạc lại rạt rào trong dạ hơn lúc bấy
giờ. Tôi hỏi một người bạn đồng hương
xem họ c̣n cảm thấy Ba Lê đẹp nữa không,
th́ ông bạn cho biết: suốt ngày tất tưởi
lo sinh kế, nên cứ cắm cúi mà đi, quên hẳn
những cảnh vật bên ngoài. Tôi
cũng c̣n nhớ, hồi c̣n trẻ, được đi
máy bay lần đầu tiên từ Hà nội vào Sàig̣n, tôi
thấy tâm thần hết sức tỉnh táo, rạo
rực. Từ lúc máy bay bắt đầu chuyển bánh
cho tới khi lên tới chín tầng cao; từ khi nó bay qua
những thành thị, những thôn xóm, những cánh đồng,
những sông ng̣i, những rạng núi xanh xanh phía dưới,
cho đến khi bay trên biển cả, bay xuyên qua những
áng mây; nhất nhất h́nh ảnh nào nh́n thấy, tôi
củng cố thu vào trong kư ức; nhất nhất
cảnh trí nào cũng hết sức là kỳ ảo đối
với tôi. Nhưng lạ lùng thay, trong
nhiều chuyến đi máy bay sau này, tôi đă mất cái
háo hất của thời niên thiếu, và cứ lên máy
bay, là liệu t́m cách ngủ vùi, chỉ c̣n nh́n thấy cái
chật hẹp của con tàu, và những bộ mặt
uể oải của hành khách. Tôi mới nhận ra
rằng cái đẹp nó vốn sẵn có quanh ta, nhưng
đón nhận được cái đẹp lại là tùy
khả năng lĩnh hội của ḿnh. Tôi
có một anh bạn, tuy là bận rộn với nghề
nghiệp, nhưng vẫn dành nhiều th́ giờ để
hưởng cái đẹp quanh ḿnh. Anh thích vẽ, thích
chụp ảnh, thích ngắm hoa. Mỗi khi có quỳnh
nở, anh lại mời bè bạn đến để
“xem hoa nở”. Mỗi khi cánh hoa muốn tàn phai, rơi
rụng, anh không cho quét đi, mà để xem cái cánh hoa rơi
ấy nó sẽ tan biến đi như thế nào.
Nhiều khi anh thuê thuyền đi xem cảnh thủy
triều lên xuống ở vùng New Port Beach, và rất thích
ngắm cảnh chiều tà; ḷng băn khoăn không
biết bóng chiều từ không trung phủ xuống, hay
từ dưới đất vươn lên. Tôi
cũng có quen một thi sĩ cao niên thích sống cùng lan,
cùng quỳnh. Mỗi khi hoa nở, là đốt trầm lên
để ngồi ngắm hoa, đối thoại với
hoa, trang trọng như đón một v́ tiên trên thượng
giới xuống chơi. Sống trong một thế
giới văn minh vật chất này, mà c̣n sống
hồn nhiên được như vậy, sảng khoái
được như vậy thực cũng là một
điều kỳ dị. Ngược
lại tôi cũng gặp nhiều vị đến chơi
tôi, phàn nàn là tại sao có nhiều người c̣n
mất th́ giờ làm thơ, làm phú, mà quí vị cho là vô
ích chi thậm; thay v́ làm công chuyện ấy tại sao không
dạy cách kiếm tiền, không bàn về những
vấn đề “chính trị, chính em.” Tôi mới
giải thích rằng thi ca là một nguồn vui rất
thanh cao. Làm thơ được những khi bị kẹt
xe trên xa lộ, hay khi đến phiên phải rửa bát
trong nhà, th́ thực sự là những bậc mặc khách,
tao nhân, biết sống hay và sống đẹp. Tôi
càng ngày càng thấy rằng, con người sinh ra ở
đời này không phải là để sống lầm
than, lam lũ, mà để dần đà sống cho hay, cho
đẹp, cho có nghệ thuật. Và
thực ra, cái đẹp đă ám ảnh mọi tầng
lớp con người từ trẻ đến già. Các cô
thôn nữ Việt Nam, tuy không dùng phấn sáp, nhưng cũng
biết mượn miếng trầu để cho cái môi thêm
đỏ, cái má thêm hồng. C̣n như các cô gái thị
thành, các cô gái văn minh hiện đại, th́ một
đời đă dùng không biết bao là tạ phấn son!
Dân quê ta, lúc nghèo, th́ quần nâu, áo vải; nhưng lúc
có tiền th́ cũng quần là, áo lượt như ai. Lúc
đă làm nên, th́ là lúc “áo gấm về làng”. Khi nghèo,
th́ nồi đất, bát đàn; nhưng khi đă khá
giả, th́ nồi đồng, bát bịt, mâm son, bát
sứ. Con người xưa nay là thế vậy. Tôi
cũng thấy có nhiều người đến một
tuổi nào đó lại đâm ra thích chơi đồ
cổ, mua tranh cổ, sưu tầm đồ cổ, v́
đồ cổ có cái thanh kỳ riêng của nó. Kể ra
th́ cũng là một thú chơi tao nhă. Nhưng riêng tôi cái
thú vui tao nhă nhất, cái hay, cái đẹp nhất lúc
tuổi già là sống sao cho nghệ thuật, sống sao như
thể là tinh hoa trời đất đă hội tụ
ở nơi ḿnh. Tôi
rất thích câu Văn ngôn hào lục ngũ quẻ Khôn: Hiền
nhân thông lư Trung Hoàng, T́m
nơi chính vị mà an thân ḿnh. Đẹp
từ tâm khảm xuất sinh, Làm
cho cơ thể xương vinh mỹ miều, Phát
ra sự nghiệp cao siêu, Thế
là đẹp đẽ đến điều c̣n chi. và
đoạn Trung Dung, chương XXVIII: Thị
cố quân tử động nhi thế vi thiên hạ đạo;
hành nhi thế vi thiên hạ pháp; ngôn nhi thế vi thiên
hạ tắc. Mà
tôi phỏng dịch như sau: Mỗi
động tác phải nên gương mẫu, Mỗi
hành vi nên dấu nên khuôn. Lời
lời ngọc nhả châu phun, Lưu
cho hậu thế muôn ngàn dài lâu. Đạo
Đức Kinh chương 54, chủ trương rằng
khi Đạo Trời được thực thi thật
sự, ánh sáng Trời sẽ lai láng muôn nơi. Đạo
Trời tu dưỡng nơi ḿnh, Đức
Trời sẽ chứng, tinh thành chẳng sai. Gia
đ́nh tu Đạo hôm mai, Đức
Trời âu sẽ láng lai tràn trề, Đạo
Trời giăi sáng làng quê, Đức
Trời âu cũng thêm bề quang hoa. Đạo
Trời rạng chiếu quốc gia, Đức
Trời lai láng tuôn ra vô ngần. Đạo
Trời soi khắp gian trần, Đức
Trời âu sẽ muôn phần mênh mang. Khi
c̣n trẻ, tôi ước mơ có những khi sẽ đi
chu du thiên hạ: sẽ sang Ai Cập, sẽ sang Phi Châu,
sang Âu Châu, sang Tàu, sang Nhật. Nhưung gần đây các
bạn tôi lại góp ư, là ngay nước Mỹ này cũng
đầy dẫy cảnh đẹp. Chẳng cần
phải đi đâu, cứ du lịch ṿng quanh nước
Mỹ cũng đă quá đủ rồi. Tôi liền đặt
mộng đi thăm các công viên Yosemete ở California,
hoặc Yellowstone ở Wyoming; đi thăm thác Niagara ở
giáp giới Canada và tiểu bang Nữu ước; hay
những cánh rừng cây cổ thụ vĩ đại
sequoia, và redwood ở California; thăm Grand Canyons ở
Arizona; thăm những động thạch nhũ ở
Timpanogos, Utah v.v... Nhưng suy đi nghĩ lại th́
thấy rằng càng đi nhiều lại càng mệt xác,
- đến bây giờ nhớ lại những lần đi
công du, thay đổi các chuyến máy bay, “check in, check
out” hành lư, lễ mễ sách hành lư, tôi vẫn c̣n
thấy ớn - và chủ trương như vậy cũng
chưa “cao tay ấn”. Nên tôi lại đặt cho tôi
một chương tŕnh đơn sơ hơn, và
chẳng tốn ải ǵ cả: đó là đi t́m cái
đẹp ở quanh ḿnh, là đi du lịch trong các sách
vở, trong các h́nh ảnh lưu trữ ở các thư
viện; t́m cái hay cái đẹp, nơi những người
sống quanh ḿnh, t́m cái hay cái đẹp trong đời
sống hằng ngày, trong tất cả cái ǵ tầm thường
nhất ḿnh gặp; và cố làm cho cái đẹp của
trời đất càng ngày càng lan tỏa, càng thẩm
thấu vào trong tâm hồn ḿnh... Tôi
nghĩ ra rằng ḿnh ở đâu, th́ phải t́m hiểu
về phong thổ, về cảnh vật xứ ấy, nên
tôi bắt đầu khảo về chim chóc ở Mỹ, cây
cối ở Mỹ, thảo mộc ở Mỹ. Tôi
bắt đầu làm quen với các loại cây cảnh,
hoa cảnh, lá cảnh giồng quanh nhà. Tôi không thích
gọi chúng bằng tên Mỹ, mà đặt cho chúng
một tên Việt Nam hay hay... Khi
đă đặt cho cây cỏ một tên như vậy, nó
sẽ trở nên gần gũi, thân thiết với ḿnh hơn,
v́ nó chính là ḿnh sinh ra... Có
vị ṭ ṃ hỏi tôi dựa vào đâu mà đặt ra
những tên như vậy. Tôi thưa: Khi
tôi đặt tên, tôi xem kỹ h́nh hoa, h́nh lá, tên hoa, màu
hoa, quê quán của hoa, rồi tùy nghi mà đặt. Ví
dụ gặp hoa Kohleria, tôi thấy hoa h́nh như những
chuông nhỏ, tôi lại thấy hai chữ “Cổ
Lễ” trong chữ Kohleria; rồi tôi nhớ hồi
trẻ có đi thăm chuông chùa Cổ Lễ ở vùng
Nam Định, thế là tôi đặt là Hoa chuông Cổ
Lễ. Ví dụ tôi đặt cho Philodendron là hoa duyên t́nh,
v́ Philo là yêu; Dendron là cây...Đến cây Pothos, tôi
thấy sách tả rằng nó giống Philodendron, nhưng màu
lá nhạt hơn, thế là tôi liền phong cho nó làm Hoa
duyên nợ. Rồi có hoa lại gọi là Đông Phi, Nam
Mỹ, Nam Dương, v́ chúng xuất xứ ở
những nơi đó. Gọi Columnea là Áng tóc v́ nó óng
ả, giống như làn tóc mây của cô thôn nữ V.N...
Cây Fittonia tôi đặt là Phi tần v́ thấy chữ
Fittonia phiền âm ra gần như vậy. Cây Ti plant tôi
gọi là T́ diệp, v́ Ti âm điệu không hay bằng T́.
Thực không ǵ sung sướng bằng những cây chưa
có tên, mà nay ḿnh cho nó những tên, khi th́ có mùi Kiều,
khi th́ có mùi kiếm hiệp Kim Dung, như là Phi tử, Phi
tần, Tiểu đồng, mà đặt thế nào, th́ cũng
“chẳng ai phiền lụy, chẳng ai rày”. Thế
thực là đă t́m thấy cái vui, cái đẹp cái hào
hứng, cái hài hước, trong những công việc
hết sức là tầm thường, buồn nản.
Để gọi là có theo đ̣i chút ít sách đèn, tôi cũng
đọc các bài b́nh luận về Thẩm Mỹ, về
CÁI ĐẸP. Đă đành là những bài viết đó
hết sức là cao, nhưng có cái lạ là h́nh như chúng
chứa sẵn một loại thuốc ngủ khá mạnh,
mỗi khi đọc chúng tôi thấy tự nhiên ngáp lên
ngáp xuống, ngáp đến chảy nước mắt, và
thấy cái tâm hồn ḿnh đang vui tươi, trong sáng,
tỉnh táo như con sáo sậu, bỗng nhiên lại “Bâng
khuâng đỉnh Giáp, non Thần”, cho nên tôi lại
gấp sách lại, trở về với cái vốn
liếng nhà, và tự trách ḿnh luôn muốn bắt chước
con cuốn chiếu phân tách xem phải ḅ bằng chân nào. Sau
này tôi mới biết lư do tại sao khi đọc các lư
thuyết bàn xuôi, tán ngược về Thẩm Mỹ,
về Cái Đẹp, mà tôi lại có thể buồn
ngủ. Đó chính là v́ cái đẹp thuộc phạm vi
tâm thần, chứ không thuộc phạm vi lư trí. Lư trí và
trí huệ, Trời cho để đi t́m cái Chân; ự chí
và Dũng cảm Trời cho để thực hiện cái
Thiện; c̣n cái đẹp là gia tài của tâm thần. Cái
đẹp mở rộng ṿng tay chờ đón mọi người,
dù là trẻ nít hay là bà lăo; dù là người nhà quê, hay
là dân thành thị, dù là lê dân hay là bậc đế vương;
xem một vở kịch hay, nghe một bản nhạc du dương,
một bài ca hùng tráng, nh́n một bức tranh đẹp,
là cũng đều rung động, thích thú giống nhau.
Cái đẹp nó thấm nhập vào tâm hồn chúng ta
một cách hết sức là tự nhiên, không bắt chúng
ta phải suy tư, phải cố gắng. Một bài ca
hay, một vở kịch hay, chính là v́ đă biết cách
làm cho cây đàn thất t́nh trong tâm hồn ta rung động.
Một kịch sĩ hay có thể làm chúng ta khóc, chúng ta cười,
chúng ta vui, chúng ta giận, chúng ta sợ, chúng ta thương,
chúng ta hồi hộp, chúng ta mê say. Nghệ thuật có
thể dùng lời ca, tiếng nhạc, dùng ánh sáng, dùng
trang trí, để mà lôi cuốn chúng ta, hấp dẫn chúng
ta. Chính v́ vậy mà các đạo giáo, rất chú
trọng dùng nghệ thuật vào trong công cuộc phụng
vụ. Không cứ là phải nghe đàn ca réo rắt, nguyên
nghe những tiếng chuông, tiếng mơ, tiếng tụng
kinh ngân nga, cũng đă làm cho tâm hồn ḿnh lâng lâng
sảng khoái; ấy là chưa kể rằng ḿnh cũng ḥa
được vào những giọng ca, những lời
tụng: hát theo, ḥa theo, tụng niệm theo, kể như
là ḿnh đă bị chinh phục... Viết
về cái Đẹp, tôi thích nhất là không phải
động chạm đến chủ nghĩa, chủ
thuyết nào., chỉ việc ḥa ḿnh với thiên nhiên
một cách chân thành, một cách hồn nhiên, thoải mái.
Thấy hoa thơm th́ nói là thơm, thấy hoa đẹp
th́ rằng hoa đẹp, chứ không sợ tội vạ
ǵ, và cũng chẳng phải lĩnh chỉ thị
của ai. Tối thiểu, tôi thấy tôi có tự do
rất nhiều trong vấn đề thẩm mỹ này.
Tuy nhiên, cảnh sắc cũng như con người, nó
chỉ chơi với những ai đồng thanh tương
ứng với nó, chỉ đối thoại với
những người mà nó thấy thương thương.
Tiến sĩ Rollo May, tác giả quyển My quest for Beauty,
cho biết lư do tại sao ông hiến thân cho nghệ
thuật. ông kể rằng một hôm ông đi dạo trên
một vùng đồi núi ở Hi Lạp, bỗng lạc vào
một vùng đầy hoa thủy tiên hoang. Lúc ấy ông như
say, như tỉnh và sực nhớ mấy lời vần
thơ của Wordsworth: I
wandered lonely as a cloud That
floats on high ó er vale and hills, When
at once I saw a crowd, A
host of golden daffodils... Ten
thousand saw I at a glance, To
sing their heads in spritely dance. Tôi
phỏng dịch; Lên
thác, xuống ghềnh tựa mây trôi, Lang
thang đây đó, khoảng núi đồi, Ngàn
vạn thủy tiên đâu rộ nở, La
đà trước gió, đón chào ai? Và
từ ấy ông mới nghe thấy tiếng ḷng ông thôi thúc
ông đi t́m cái đẹp... Và
ông lại ngâm tiếp mấy câu thơ của Wordsworth: For
oft, when on my couch I lie, In
vacant or in pensive mood, They
flash upon the inward eye Which
is the bliss of solitude; And
then my heart with pleasure fills, And
dances with the daffodils (3). Tôi
phỏng dịch; Đ̣i
phen, tựa triện, nghĩ lai rai, Đ̣i
phen ḷng dạ vắng sự đời, H́nh
ảnh thủy tiên đâu lại hiện, Hiện
ra rực rỡ cả ḷng tôi! Như
hoa vui múa dưới trời, Ḷng
ta hoa ấy đôi nơi tưng bừng. Nếu
chúng ta nh́n vào cảnh đẹp đất trời, mà
đến say sưa ngây ngất, đến như thấy
ḿnh ḥa làm một cùng Đại Thể vũ trụ, không
c̣n ǵ là biên cương ngăn cách, lúc ấy ta sẽ
trở thành con người mới, hoặc là sẽ bước
vào con đường giác ngộ. Đây
là một vấn đề hết sức quan trọng, nên
tôi cần dẫn chứng thêm. Họa
sĩ Delacroix ngày kia, giữa những phút nghỉ ngơi
sau nhiều giờ làm việc, ngồi phơi ḿnh trên
cỏ nắng. ông tinh nghịch bốc lên tay một
nắm cát, mắt lim dim, sẽ hé ḷng bàn tay cho cát rơi
lả tả trong nắng. Cát lăn tăn quay lộn,
bắt ánh nắng mặt trời hiện ra muôn màu
sắc lóng lánh như những phần tử ánh sáng
lạ lùng. Ngoài xa, những đống rơm vàng rực,
những đàn bà ngăm đen, tượng trời, h́nh
đất, cả một khung cảnh kỳ thú và
tuyệt diệu, biến ảo trước mắt
nghệ sĩ sau màn cát, chứa đựng cả một
vũ trụ ánh sáng và màu sắc quyến rũ như
những h́nh ảnh mơ trong một giấc mơ
tuyệt đẹp. Delacroix bàng hoàng, hấp tấp ghi
lại những “ấn tượng” khả ái kia trên
khung vải, bằng đầu bút, thành những chấm màu
sắc li ti, xinh xắn; chấm nọ đặt khít
chấm kia. Trên tác phẩm đầy sức sống
hiển hiện giữa những vảy vàng nhảy múa
lẫn lộn trong cát mang tên là “Những người
đàn bà da đen thành Alger”. Delacroix ghi lại những
tiếng hồn tơ rung động và h́nh ảnh thoáng
qua trong giây phút...Bức họa này đă mở màn cho
phong trào cá nhân chủ nghĩa, tiền phong của môn phái
ấn tượng. Fritjof
Capra, một giáo sư vật lư, một chiều hè,
ngồi trên băi biển, tự nhiên cảm thấy
những luồng sinh lực, như những thác lũ
đang đổ xuống trần hoàn, và thấy tất
cả các vi tử vi trần, ngoài thân ông cũng như
trong thân ông đang đang rạo rực đồng
tấu một đại vũ khúc của vũ trụ,
một vũ khúc thần linh như vũ khúc Shiva, và
từ đấy ông đi vào thế giới biến
ảo, chuyển dịch vô thường của Kinh
Dịch, vào thế giới tương đối của
âm Dương và thế giới Đồng nhất
của Bản thể: từ một nhà vật lư học
ông đă trở thành một đạo gia, và đă
viết quyển The Tao of Physics để bắc nhịp
cầu giữa Khoa học Tây phương với Đạo
giáo Đông Phương. Đọc
tiểu sử Đức Huynh Phú Sổ, ta cũng thấy
là Ngài, sau khi đưa thân phụ đi chu du các vùng núi
Tà Lơn, Thất Sơn, nhân xúc ảnh thiên nhiên bao la, hùng
vĩ, mà đă giác ngộ. Mới
hay cảnh vật thiên nhiên vừa là nhịp cầu,
vừa là bức màn ngăn cách cá nhân với Đại
thể vô biên. Và trong công phu đi t́m đại thể Vô
Biên, con người có hai đường lối trong và
ngoài: chung qui vẫn chỉ là làm sao vượt qua
được bức màn ảnh tượng. Cái vẻ
đẹp bên ngoài của muôn vật chính thực đă
lan tỏa từ ḷng sâu Bản thể để chan
chứa ra bên ngoài. Khi chưa giác ngộ, thời Bản
thể như một đạo gia đang đi hái
thuốc ở một vùng rừng núi mênh mông, khói sương
mịt mùng che phủ, mà khách không biết vân ṃng nơi
đâu mà t́m, như trong bài thơ Giả Đảo: Tùng
hạ vấn đồng tử Ngôn
sư thái dược khứ. Chỉ
tại thử sơn trung, Vân
thâm bất kiến xứ. Tản
Đà dịch: Gốc
thông hỏi chú học tṛ, Rằng:
“Thầy hái thuốc ḷ ṃ đi xa, Chỉ
trong dăy núi đây mà, Mây
che mù mịt biết là nơi nao?” Chi
Điền dịch: Dưới
thông hỏi chú tiểu đồng, Thưa:
“Thầy hái thuốc nên không có nhà. Thày
đi quanh núi không xa, Mây
mù che khuất biết là nơi đâu.” (4) Nhưng
khi đă “quan kỳ vô thanh, thính kỳ vô tượng”
(Nghe qua bức tường âm thanh, nh́n qua lớp màn
ảnh tượng), th́ Bản thể vũ trụ lúc nào
cũng gần trong gang tấc, và lúc ấy đạo gia có
thể ngâm lời thơ của Upanishad: He
who, dwelling in all things, Yet
is other than all things, Whom
all things do not know, Whose
body all things are, Who
controls all things from within - He
is your Soul, the Inner Controller, The
immortal.( Brihad - aranyaka Upanishad, 3.7.15) Chuyển
thơ: Vô
biên lẩn trong ḷng vạn hữu, Mà
vẫn như phiểu diễu xa xăm. Muôn
loài là xác, là thân, Mà
nào có hiểu Chân Thần là chi? Trong
ḷng vạn hữu chỉ huy, Ngài
là Thần bạn, uy nghi trường tồn! Giáo
sư Tiến sĩ Fritjof Capra, khi trích dẫn lời kinh trên,
đă đưa ra lời b́nh luận bất hủ như
sau: “V́
chuyển dịch và biến thiên là hai đặc tính căn
bản, cơ hữu của vạn vật, cho nên những
động lực sinh ra chuyển dịch không ở ngoài
vạn vật, như Hi Lạp xưa đă quan niệm, mà
chính là đặc tính nội tại của vật
chất. Chính v́ thế mà Á Đông cho rằng THẦN
LINH không phải là một nhà cầm quyền ngự trên
trời để điều khiển hạ giới, mà chính
là một NGUYÊN Lự chỉ huy mọi sự từ ḷng sâu
vạn hữu (5). Lúc
ấy không c̣n phân tiên, tục; tục tiên; lúc ấy,
trong tiên có tục, trong tục có tiên; lúc ấy dưới
lớp tục bên ngoài, có cốt tiên bên trong. Đúng là: ”Lơ
thơ chùa rách giữa đàng, Ai
hay lại có bụt vàng ở trong. Lúc
ấy mới nhận ra rằng dưới những
lớp gấm hoa hiện tượng bên ngoài, dưới
lớp tranh vân cẩu huy hoàng bên ngoài, luôn luôn có sự
hiện hữu của Bản thể vĩnh cửu ở bên
trong. Mới hay cái đẹp biến thiên bên ngoài đă
dần dần phơi bày ra cái đẹp vĩnh cửu
ở bên trong. Đạo
Lăo rằng: Phân
minh chỉ tại mục t́nh tiền, Chỉ
tại thời nhân bất kiến Thiên. Dịch: Phân
minh đă sẵn trước con ngươi, Chỉ
tại người ta chẳng thấy Trời. André
Malraux, năm 1960, đă viết một quyển sách về
Nghệ thuật nhan đề là The Metamorphosis of the Gods
(Sự Hóa thân của Thần minh). Chắc
là ông muốn nói lên rằng cái vũ trụ hữu h́nh
này chỉ là muôn vạn hóa thân của Đấng Vô Cùng. ông
lại chủ trương đại khái rằng: 1.-
Nghệ thuật trong nhiều ngàn năm đă có bổn
phận mô tả thần minh (6). 2.-
Hi Lạp thực ra đă không phân biệt thiêng và
tục, v́ Thần Linh đă tiềm ẩn trong vạn
hữu, v́ bất kỳ sinh linh nào cũng có yếu
tố Thần Linh ở bên trong. (7) 3.-Trong
nghệ thuật Hi Lạp, cái h́nh tướng phải làm
lan tỏa Thần Linh ra bên ngoài (8). 4.-Cho
đến khoảng thế kỷ 12, Giáo hội miền
Đông (Byzantium) cho rằng Thượng đế xa cách
muôn loài; c̣n Giáo hội La Mă vẫn tin Thượng đế
tiềm ẩn trong ḷng vạn hữu (9). Như
vậy, theo tôi, nghệ thuật, bất kỳ là hội
họa hay điêu khắc đều phải làm cho ta
thấy trong ảnh, trong tượng có THẦN. Theo đà
thời gian, có thời kỳ, các họa sĩ đă làm
mất cái Thần đó đi, nên trông vào các ảnh tượng,
ta thấy nó có vẻ ngây ngô, đờ đẫn,
chẳng có tự nhiên chút nào. Trông vài Lịch sử
nghệ thuật Tây Phương, ta thấy nó chuyển ḿnh
dần, từ Thượng đế, đến tượng
h́nh (symbols) (Byzantine (thế kỷ 5).- Romanesque (thế
kỷ 5-12), đến Chúa Giêsu, đến Đức
Mẹ, đến các thánh Tông đồ (Romanesque), rồi
đến các thánh hoặc tử đạo, hoặc không
(Gothic: thế kỷ 12-15.- Baroque: thế kỷ 16-18), đến
các Giáo Hoàng, các vua chúa hoặc danh tướng danh nhân.
Mới đầu th́ mô tả linh thiêng siêu việt, sau
dần dần, như muốn đem sầu bi khổ
nạn của Chúa, của Đức Mẹ để kích
động ḷng người; đem thiên đàng hỏa
ngục để hứa hẹn, hay đe dọa. Và
những h́nh ảnh đó in sâu vào trong tâm hồn
những người dân chất phác. Francois Villon, một
thi sĩ Pháp đă mượn lời người thôn
nữ già để mô tả ảnh hưởng của
nghệ thuật dân gian đó như sau: Gái
này vừa túng vừa già, Hoàn
toàn mù chữ, chưa qua mái trường. Làng
tôi có một giáo đường, Có
h́nh hỏa ngục, thiên đường đôi nơi. Thiên
đường thời có cầm đài, Hỏa
hào thời thấy hồn người bị thiêu, Thiên
đàng, tôi thấy tôi yêu, Trông
vào hỏa ngục, ḷng nhiều kinh mang.(10) Từ
thời Phục hưng (thế kỷ 14) trở về sau
mới thấy có những h́nh ảnh dân gian, trần
tục (11). Ví dụ như h́nh ảnh khỏa thân là
đặc điểm của thời kỳ Phục hưng. Từ
thế kỷ 19 đến nay, Âu Châu lại đi từ
Thực Tại trở về Trừu tượng, trở
về ấn tượng, Tượng h́nh v.v... Malraux
cho rằng các thời đại cổ xưa như ở
Hi Lạp, ở ấn độ, nghệ thuật, như
muốn nói lên rằng sau bức màn hiện tượng
biến thiên, c̣n có Chân Lư hằng cửu. Nghệ
thuật cốt là để nói lên cái Hữu, nói lên cái
trật tự, cái ḥa hài, cái đẹp đẽ, cái cân
xứng của thế giới hữu h́nh này. Và
Ai Cập th́ cho thấy cái vĩnh cửu, ngự trị
giữa các biến thiên. Từ
cái đẹp thiên nhiên, tôi đă lan man bàn đến
mỹ thuật gian trần, nhất là đến hội
họa và điêu khắc, và tôi cũng đă cho thấy
mỹ nghệ có khi thăng, khi giáng; khi cao, khi thấp; khi
khinh khoát, khi trần tục, như thể con người.
Tuy nhiên tôi không phải chỉ nguyên t́m thưởng
thức cái đẹp, mà chính là đi t́m cho ra căn do cái
đẹp. Khi c̣n bé, tôi chỉ thấy cái đẹp nó
rời rạc, ngày nay tôi thấy cái đẹp trong
sự ḥa hài, tiết tấu, đối đáp của
cả vũ trụ quần sinh. Ví
dụ khi tôi mới lớn lên, c̣n ở nơi thôn dă, tôi
đă làm một bài thơ nhỏ, mà nay tôi chỉ c̣n
nhớ được đoạn cuối như sau: ...Nhưng
mà trong lũy tre xanh, Cho
người mến Chúa, Chúa dành phúc riêng. Đă
được Chúa, con liền đầy đủ, Được
Chúa rồi, c̣n có thiếu chi? Chúa
là đóa huệ diệu kỳ, Chúa
là ngọc quí, lấy ǵ bắc cân. Núi
xanh biếc, xa xăm một dẫy, Đồng
mênh mang, hây hẩy gió đưa, Tiếng
chim ríu rít sớm trưa, Con
sông vang sóng, lững lờ buồm xuôi. Mọi
vẻ đẹp trên trời, dưới đất, Chúa
ra tay xếp đặt v́ con. Trông
vời trời bể nước non, Ḷng
con muốn giữ tấm son suốt đời. Bây
giờ đọc lại mấy vần thơ trên, tôi
thấy nó thật ấu trĩ. Lúc ấy, tôi và Thượng
đế thật là bỉ thử chia phôi; Tương
giang đầu, Tương giang vĩ. Ngày nay tôi thực
sự mới thấy Ngài chính là Nguồn sống của
tôi; và tôi cũng chính là một thành phần bất
khả ly trong cái vũ trụ vô biên tế này. Lúc
ấy, tôi mới chỉ thấy những vẻ đẹp
của trời là sự xếp đặt của Thượng
đế; ngày nay tôi thấy vẻ đẹp của gian
trần chính là sự hiển linh của Thượng
đế. Và v́ Ngài ở khắp nơi, nên tôi cũng
thấy vẻ đẹp tuôn ra từ khắp nơi. Dù tôi
ra biển khơi, tôi cũng thấy vẻ đẹp in trên
sóng nước; dù tôi có vào rừng thẳm, tôi cũng
thấy vẻ đẹp tràn lan trên các hoa dại, lá
rừng; dù tôi lạc vào sa mạc, tôi vẫn thấy
vẻ đẹp rởn đùa trên các lớp sóng cát vàng.
Đối với tôi vẻ đẹp đă từ ḷng
đất tung ra để giúp cho hoa lá có muôn màu rực
rỡ; vẻ đẹp đă từ thinh không sa xuống
bằng ánh sáng của hai vầng nhật nguyệt, và
của muôn sao, hay bằng những hạt sương,
hạt móc. Vẻ đẹp đă quyện vào hương
hoa, phảng phất đó đây trong không trung; vẻ
đẹp đă lồng vào trong tiếng gió hơi may, xào
xạc nơi kẽ lá, đầu cành; vẻ đẹp
đă theo làn gió mát, từ phương trời xa âm
thầm tới, mơn man da thịt của chúng ta, trong
những buổi trưa hè oi bức. Vẻ đẹp
đă lẩn vào trong bóng râm, đă hiện ra trong
khoảng nắng, trên những bước đường
ta đi. Chúng ta luôn luôn được thưởng
thức những cảnh đẹp thiên nhiên ấy, mà không
hề phải trả một xu tiền vé vào cửa nào. Trông
màu sắc cỏ cây, tôi thấy như các hạt ánh sáng
đă ngưng đọng lại trong các màng lưới
diệp lục tố (chlophyll), để làm cho chúng ta vui
mắt. Mỗi khi nh́n vào kim cương, vào ngọc
hồng, ngọc lam, ngọc bích, ngọc tím, ngọc đỏ,
ngọc xanh, tôi lại tưởng như đó là
những nàng tiên từ một khung trời nào đó, v́
mảng vui, nên đă bị hóa kiếp làm ngọc,
chỉ c̣n biết ngậm ngùi, nh́n hồng trần, nh́n tôi
bằng những ánh mắt chứa chan sắc màu,
những lại vô cùng thầm lặng. Và tôi sẽ
quyết không mảng vui, để cho thân khỏi cảnh
cá chậu, chim lồng trong khoảng trời công danh
lợi lộc, đánh mất cái thần thông biến hóa
của ḿnh. Tôi
có một ông bạn có một tâm hồn hết sức bén
nhạy. Tuy ông là một Phật tử thuần thành, mà
gặp tôi, ông đă nói được những câu như
“sống thông công với Chúa”, và ông lại tạo ra
được hai chữ “thần tắc”, khi tôi đang
nói chuyện về “thần thông”. Có lẽ Lăo tử và
Trang tử cũng đă sợ “thần chúng ta bị
tắc” trong ṿng âm thanh, và màu sắc, nên đă cố
khuyên ta tránh đừng để cho ḿnh bị quyến dũ
bởi âm thanh và màu sắc của thế nhân. Càng
ngày tôi càng thấy âm nhạc, kiến trúc, hội
họa, điêu khắc, kịch nghệ, là những ǵ không
thể thiếu được, khi con người c̣n
sống ở trần hoàn này. Nó kích động con người,
an ủi con người, làm cho con người quên sầu,
quên muộn, và như luôn luôn muốn nhắc nhớ con
người rằng dưới bức màn ảo ảnh,
biến thiên của h́nh, danh, sắc tướng, c̣n có
một Đại thể vô biên. Con người sinh ra
đời phải làm sao mà vượt nổi “bức tường
thanh sắc” của không gian thời gian, để
trở lại với Đại thể vô biên ấy. Chính
v́ vậy, mà dù bên Đông, cũng như bên Tây, người
ta sính xây các đền đài, miếu mạo. Vũ
trụ, đền đài, miếu mạo, con người,
tuy là ba thành phần hết sức khác nhau trên b́nh
diện sắc tướng; nhưng lại hoàn toàn
giống nhau trên phương diện cơ cấu. Nói
thế có nghĩa là nếu có LINH THẦN trong giữa ḷng
vũ trụ; th́ ắt LINH THẦN cũng phải có trong
nơi cao quí và thẳm sâu nhất của đền đài,
và trong con người. Cho nên các đền đài lớn
trong thế giới xưa nay, một là khuôn theo h́nh dáng vũ
trụ, hai là khuôn theo h́nh dáng con người. Các
nhà khảo cổ, quan sát các đền thờ, các thành
thánh xưa (như Angkor Thom) đă nhận thấy rằng
khi xây cất các công tŕnh vĩ đại ấy, cổ
nhân muốn lấy gỗ đá để xây lại
một vũ trụ nhỏ, cho nên Trung cung bao giờ cũng
dành để thờ đấng Tối Cao, c̣n bên ngoài th́
chạm trổ tiên thánh, quần sinh, hoặc là có thành quách
bao bọc, tượng trưng cho núi non; hào lạch, tượng
trưng cho sông biển. Con người muốn đi vào
Trung Cung, muốn lên tới thần minh, sẽ phải vượt
biển, trèo non, sẽ phải lướt thắng các
trở ngại, sẽ phải đi quanh quất, tiến
tới măi mới đến được, chứ không
phải là chuyện dễ... Léon
Sprink sau khi suy cứu về các lối kiến trúc các thánh
đường của Giáo Hội Chính Thống cũng như
của Giáo Hội La Mă, đă đi đến kết
luận như sau: -Các
thánh đường bên Đông xây theo lối ṿm tṛn, và
bàn thờ sẽ ở nơi tâm điểm của ṿm. -
Các thánh đường bên Tây (thuộc Giáo hội La Mă)
được xây theo h́nh thập tự, trong đó cánh
trên chính là đầu con người; hai cánh ngang là hai
tay; cánh dưới là ḿnh, là chân con người. Bàn
thờ dĩ nhiên phải đặt vào cánh trên, tương
đương với Minh Đường nơi con người
(12). -
Trong h́nh Bát quái, trong các Mandalas ấn Độ hay Trung
Hoa, bao giờ tâm điểm cũng dành cho Vô Cực, Thái
Cực. -
Trong tất cả các tinh thể của vạn hữu, tâm
điểm là một chỗ trống. -
Kỳ lạ nhất là khi vẽ các đồ án thành
phố, khi xây cất các thành phố, bao giờ cũng
thấy có một khu Trung Tâm, mà người ta gọi là Công
trường hay Quảng trường (Square). Trung tâm đó
có thể tṛn như Công trường thánh Peter ở
Vatican, hay vuông, hay chữ nhật như thấy trong
nhiều thành phố Âu Châu thời Trung Cổ. Paul Zucker,
đă viết quyển Town and Square, dày 287 trang, để
chứng minh sự kiện này (13) -
H́nh như tiềm thức con người đă bắt con
người luôn luôn bị ám ảnh bởi cái Trung tâm
huyền diệu ấy. Mà thật ra,nếu không có Trung tâm
huyền diệu ấy, th́ vũ trụ, vạn hữu,
sinh linh tất cả đều bị ngột ngạt. -
Nói thế để hướng dẫn quí vị tới
Năo thất Ba, mà tôi đă khám phá ra được
tầm quan trọng của nó, trong đời sống tâm
linh và đạo giáo con người, vào khoảng năm
1962. Người xưa gọi nơi tâm điểm đầu
năo trong con người ấy là LINH ĐÀI, là CAO ĐÀI,
là HUƯNH Đ̀NH, là “Chân Nhất Nguyên Thần sở cư
chi thất”. Chân Thần quí vị ở đấy,
Phật tính quí vị ở đấy; đền đài
miếu mạo nội tâm quí vị ở đấy. Nhưng
đă có bao giờ quí vị văng cảnh đền đài
này chưa? Chung qui, hẳn quí vị cũng thấy
rằng, trong khi mời gọi quí vị thưởng
thức cái đẹp thiên nhiên, tôi đă giúp quí vị
nh́n thấy dáng dấp của Vô Biên; trong khi cùng quí
vị đàm luận về nghệ thuật, tôi đă cho
quí vị thấy tất cả cái đẹp đẽ, cái
sáng tạo của con người đều đă từ
một điểm Linh Đài mà tung tỏa ra; đă
gợi cho quí vị thấy rằng một nghệ sĩ
siêu việt phải biết dùng cái Hữu Hạn, để
gợi ra cái Vô Biên; phải gợi cho thấy Nguồn
Sinh Lực vô biên đang rạt rào sau bức màn cảnh
sắc biến thiên của đất trời, chứ không
phải là để mê hoặc con người, dọa
nạt con người, làm cho tâm hồn con người cô
đọng lại thành những h́nh gỗ đá, cứ
đứng ỳ thân, mặc kệ sự chuyển
vần, biến hóa linh diệu của trần hoàn. Tôi
lại suy tư thêm rằng: Trời sinh ra con người
không phải là chỉ để cho hưởng đẹp;
để tạo ra cái đẹp, cái hay cho người
đời chiêm ngưỡng; nhưng chính lại c̣n là
để cho đời sống ḿnh trở thành một
nghệ thuật sống động, một bài ca, một
khúc nhạc tuyệt vời. Công tŕnh tu luyện bản thân
có thể ví được như là công tŕnh của
một nhà điêu khắc, lúc th́ đục cái này, lúc
th́ giũa cái kia, để cho tất cả trở nên cân
xứng, trở nên quân b́nh, trở nên sống động,
trở nên tinh tuyền. Có lẽ chính
v́ vậy mà Kinh Thi đă khen người quân tử như
sau: Ḱa
xem bên nẻo sông Kỳ, Tre
non mới mọc xanh ŕ vườn ai. Người
đâu rực rỡ hỡi người, Như
cát, như đánh, giũa mài bấy nay. Lẫm
liệt thay, rực rỡ thay, Hỡi
người quân tử biết ngày nào quên. Đạo
Đức Kinh, nơi chương 22, cũng viết: Bao
dang dở làm cho tươm tất, Bao
cong queo, hăy bắt cho ngay, Hăy
san chỗ trũng cho đầy, Cũ
càng đổi mới, mới ngay tức th́. Đạm
thanh sẽ thỏa thuê, đầy đủ, Phiền
toái nhiều, trí lự ám hôn. Thánh
nhân một dạ sắt son, Ḥa
ḿnh với Đạo, treo gương cho đời. ít
phô trương: rạng ngời sáng quắc, Chẳng
khoe khoang: vằng vặc trăng sao. Chẳng
vênh vác, vẫn cao công nghiệp, Chẳng
huênh hoang, ngồi tít tầng cao. Không
tranh ai nỡ tranh nào, Lời
người xưa nói nhẽ nào sai ngoa. “Bao
dang dở làm cho tươm tất, Tươm
tất rồi, ắt sẽ về Ngài.” C̣n
đối với những vị đă đắc quả
thượng thừa, vô tu, vô chứng, tôi xin tặng
lại bài kệ của Lục tổ Huệ Năng. Bồ
Đề bản vô thụ, Minh
kính diệc phi đài. Bản
lai vô nhất vật, Hà
xứ nhạ trần ai. Tạm
dịch Bồ
đề vốn không cây, Gương
trong cũng chẳng đài, Bản
lai không một vật, Bụi
bám ở đâu nơi? Tóm lại,
dùng Linh tri, Linh giác của ḿnh để mà t́m ra
được Đại thể của Vũ trụ, và
của ḷng con người, đó là Chân. Dùng
thần uy, thần lực để thực hiện điều
hay cho ḿnh, cho người, đó là Thiện. Thực
hiện được cái đẹp nơi tâm linh ḿnh, làm
cho cái đẹp từ tâm linh ḿnh tung tỏa măi ra, dăi sáng
măi ra, ḥa được ḿnh vào Nguồn đẹp
của vũ trụ quần sinh, đó là Mỹ. Khi mà Chân,
Thiện, Mỹ ḥa hợp với nhau thành Đại Linh
Quang, con người sẽ đạt được
thế THÁI H̉A muôn thủa. Mới đầu chúng ta tưởng chừng như cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ nó ở ngoài chúng ta, ai hay, cuối cùng ta lại thấy chúng đă tiềm ẩn sẵn trong ḷng ta, từ khi ta chửa chào đời. Mới hay chuyện đời thật hết sức kỳ bí. **************************** 1.-'
Beauty, says Mendelssohn, ' vanishes away as soon as we try to analyze it.'.-
James Hastings Editor, Encyclopedia of Religion and Ethics, Scribners, New York,
Vol. II, p. 447, in Art. Beauty. 2.-
And Meir... thus expresses himself: 'The cheeks of a beautiful woman are
beautiful as long as they are seen with the naked eye. Look at them, with a
magnifying glass and their beauty departs.'- Ib. p. 447. 3.-
Rollo May, My quest for beauty, Saybrook, S.F., Dallas, New York, 1985, p.p.
11&13. 4.-Chi
Điền, Hoàng Duy Từ, Đường thi tuyển
dịch, tr.85-86 5.-
Since motion and change are essential properties of things, the forces causing
the motion are not outside the objects, as in the classical Greek view, but are
an intrinsic property of matter. Correspondingly, the Eastern image of the
Divine is not that of a ruler who directs the world from above, but of a
principle that controls everything from within Fritjof Capra, The Tao of
Physics, Bantam Books, 1984, p.11. 6.-For
many millenia art's function was to represent the gods.- André Malraux, The
metamorphosis of the Gods,Doubleday, New York 1960, p. 1. 7.-For
Greece, the “sacred” did not exist, but neither did the wholly profane,
since immanent in every form of life was an element of the divine.- Ib. 52. 8.-”The
Greek miracle” was the creation of forms expressing the Divine.- Ib. 72. The
gods of Greece took form through art, as light through all that which it
illuminates.- Ib. 81. 9.-Byzantium
had been fascinated by God's inscrutable remoteness; Rome saw God's presence in
all things, and this was the leit-motiv of the preaching of the Age.- Ib. 186. 10.-I
am a woman, poor and old, Quite
ignorant, I cannot read They
showed me by my village church A
painted Paradise with harps And
Hell where the damned souls are boiled, One
gives me joy, the other frightens me. Ẹ
H. Gombrich, The History of Art,Phaidon, 1966, p. 125. 11.-In
the Middle Ages we have art for God's sake, in the Renaissance we have art for
man's sake, in the nineteenth century we have art for art's sake, and in the
twentieth century we have no art for God's sake. (G.
K. Chesterton).- Rollo May, My quest for Beauty, Saybrook, 1985, p. 187. 12.-Cf.
Leon Sprink, Art sacré en Occident et en Orient,Editions Xavier Mappus, Sainte
Hélène, Lyon, 1962. 13.- Cf. Paul Zucker,Town and Square, Columbia City Press, New York & London, 1966. |
|