Đạo
Cao Đài qua mắt nh́n của Mục sư Victor L.
Oliver
LÊ
ANH DŨNG
Nhiều
năm trước, xem thư tịch sách tham khảo
của một tác giả nước ngoài nghiên
cứu về đạo Cao Đài, tôi chú ư
quyển Caodai spiritism – a study of religion in Vietnamese society (Thông linh
học Cao Đài –
một nghiên cứu tôn giáo trong xă hội Việt
Nam), của Victor L. Oliver, do E. J. Brill xuất bản
tại Leiden, Ḥa Lan, năm 1976.
Năm
1970 Mục sư Victor L. Oliver qua Việt Nam. Ông
được Đồng Tân Trần Thái Chân giúp
đỡ rất tích cực trong việc khảo sát
thực tế một số cộng đồng Cao
Đài để bổ sung chỗ kiến thức ông
đă thu lượm qua sách vở khi c̣n ở nước
ngoài. Quyển T́m
hiểu đạo Cao Đài của Đồng Tân
(Sài G̣n, 1974, tr. 156), cho thấy một bức ảnh
(không rơ nét lắm) chụp Victor L. Oliver cùng với
bốn người nữa đang ở đảo Phú
Quốc, tại một địa điểm mà xưa
kia tiền bối Ngô Văn Chiêu đă nh́n thấy
cảnh bồng lai hiện ra trên bầu trời Dương
Đông. Trong lời cảm tạ đầu sách Caodai
spiritism, bày tỏ ḷng biết ơn với Đồng
Tân, Victor L. Oliver viết: “Ở
Việt Nam, ông Trần Thái Chân, một tác giả
Cao Đài, đặc biệt rất hữu ích.”
Cũng trong lời cám ơn đầu sách, Oliver cho
biết rằng việc ông sang Việt Nam nghiên
cứu về Cao Đài đă hoàn tất trước
khi những ngày cuối cùng của chiến tranh
Việt Nam kết thúc.
Đề
tài nghiên cứu Cao Đài của ông được
hai tổ chức bảo trợ:
(1)
The Center for Vietnamese Studies
and Programs (Trung tâm Nghiên cứu và các Chương
tŕnh về Việt Nam), thuộc Viện đại
học Southern Illinois, Mỹ; và
(2)
The Wenner-Gren Anthropological
Foundation (Tổ chức Nhân chủng học
Wenner-Gren).
°
Caodai
spiritism
được viết lại từ luận án
tiến sĩ của Victor L. Oliver bảo vệ
tại Viện đại học Syracuse năm 1972,
nhan đề Caodaism: Vietnamese example of sectarian development (Đạo
Cao Đài: một kiểu mẫu về sự phát
triển giáo phái tại Việt Nam.)
Trong
lời dẫn nhập (Introdution, p. 3) quyển Caodai
spiritism, Victor L. Oliver cho biết rằng ông bắt
đầu quan tâm tới đạo Cao Đài trong
những năm 1962-65 khi sống ở miền nam
Việt Nam. Sau khi đến thăm các thánh thất
Cao Đài và có được chút ít kiến
thức sơ sài về đạo Cao Đài, ông
cảm nhận rằng đạo Cao Đài sẽ là
một đề tài đầy thách thức khi
muốn nghiên cứu sâu hơn, nếu như trước
đây chưa có ai nghiên cứu như vậy.
Trong
quá tŕnh hoàn thành các yêu cầu cho học vị
tiến sĩ tại Viêïn đại học Syracuse
(Mỹ), Victor L. Oliver đă được đọc
các tư liệu về Cao Đài nằm trong bộ
sưu tập Wason (the
Wason Collection) tại Thư viện của Viện
đại học Cornell (Mỹ). Nhận thấy
nguồn tư liệu về Cao Đài của bộ
sưu tập Wason c̣n sơ sài, ông t́m đến các
học giả, những nhà nghiên cứu phương
Tây hiểu biết nhiều về Việt Nam. “Tất
cả những người này đều biết
rằng đạo Cao Đài có một vai tṛ quan
trọng trong lịch sử Việt Nam gần đây,
và họ cũng đồng ư rằng chắc
chắn có một sự thiếu thốn dữ
liệu về đạo Cao Đài.”
Thế
là Victor L. Oliver sang Việt Nam. Với nguồn tài
liệu thu thập tại quê hương của
đạo Cao Đài, ông có nhận xét như sau (p.
4):
1.
Không có một nghiên cứu nào bằng tiếng
Việt hay bằng các ngôn ngữ phương Tây
lại tŕnh bày được đạo Cao Đài
như một tổng thể, bao gồm cả sự
phát triển các phái và tổ chức Cao Đài khác
nhau.
2.
Các tác giả Việt Nam viết về đạo
Cao Đài có xu hướng coi phái ḿnh là trung tâm (ethnocentric
point of view) và bỏ qua các tổ chức Cao Đài
khác nếu như các tổ chức ấy không cùng
một phái với người viết.
°
Dày
hơn 140 trang, Caodai spiritism của Victor L. Oliver là quyển
thứ 34 trong tủ sách chuyên đề Studies
in the History of Religions (nghiên cứu lịch sử các
tôn giáo) của nhà xuất bản E. J. Brill. Sách
gồm năm chương:
I.
Nguồn gốc lịch sử của đạo Cao
Đài (27 tr.);
II.
Sự thành lập đạo Cao Đài (20 tr.);
III.
Cao Đài Tây Ninh và Cao Đài Chiếu Minh Tam thanh (32
tr.);
IV.
Sự phát triển các phái Cao Đài (24 tr.);
V.
Những nỗ lực để thống nhất các
phái (10 tr.)
Trong
Phụ lục (21 tr.) Oliver nói thêm về:
I.
Điều kiện thăng cấp của các
chức sắc, chức việc Cửu trùng đài và
Hiệp thiên đài;
II.
Vấn đề đóng góp công quả cho Ṭa thánh
Tây Ninh;
III.
Giới thiệu khái quát về các phái và tổ
chức trong đạo Cao Đài.
Victor
L. Oliver đă được tiếp cận các
cộng đồng Cao Đài trong Nam, đi ra Hội
thánh Truyền giáo Cao Đài ở Đà Nẵng,
đặt chân trên cả đảo Phú Quốc, là
một trong mấy nơi phát tích đạo Cao Đài...
Ông cũng đă được tiếp cận
từ hệ thống phổ độ Tây Ninh đến
các đàn vô vi của Chiếu Minh, và hiểu
biết cả Cơ quan Phổ thông Giáo lư... Do đó,
đọc sách ông, người phương Tây có
thể hiểu biết khá nhiều về đạo
Cao Đài, lược sử nền Đạo, nghi
thức cúng thời, thậm chí c̣n biết
được khái quát các chi tiết rất nhỏ
như dâng sớ, quỳ hương, xin keo, lập hồng
thệ, biết cách thức lập đàn cơ,
cách trấn đàn bằng
tịnh thủy, v.v...
Khi
nói về nghi lễ Cao Đài, cách lấy dấu
tam quy trên trán (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng),
Victor L. Oliver viết: “Each
participant makes a commitment of self to Cao Dai, His Creation, and to
Humanity.” (p. 12). Như vậy, Oliver hiểu
rằng:
(1)
Phật là Thượng
đế Cao Đài;
(2)
Pháp là sự sáng
tạo của Thượng đế;
(3)
Tăng là con người,
là nhân loại.
Là
người nước ngoài, dù làm việc cẩn
thận và nghiêm túc th́ thỉnh thoảng Victor L.
Oliver cũng khó tránh khỏi một ít sai sót nho
nhỏ. Chẳng hạn:
1.
“the Vietnamese poet, Lư Thái
Bạch” (nhà thơ Việt Nam, Lư Thái Bạch,
p. 10). Lẽ ra phải viết là the
Chinese poet (nhà thơ Trung Quốc) hay the
Tang poet (thi sĩ đời Đường).
2.
“vegetarian practice to six days
a month (chay sóc)” (p. 11). Lẽ ra phải viết là
lục trai hay ăn chay tháng sáu ngày.
3.
Về thời thơ ấu của tiền bối
Ngô Văn Chiêu, Oliver viết: “At
the age of six he went to live with his married sister at Mỹ
Tho” (Lúc sáu tuổi, ông tới sống với người
chị đă có chồng ở Mỹ Tho, p. 33).
Lẽ ra phải viết là his father’s married sister mới đúng là “người
cô”, tức là bà Ngô Thị Đây.
4.
Về nhạc lễ Cao Đài, Oliver hiểu
đúng khi viết:
“Nhạc là một phần cần thiết để
đảm bảo cho tất cả nghi lễ của
đạo Cao Đài được trọn vẹn.
Nhạc truyền thống Việt Nam tạo thành
nền tảng cho nhạc lễ Cao Đài.”
Thế nhưng ông lại ngộ nhận khi viết
tiếp sau đó: “Thoạt
kỳ thuỷ, kiểu mẫu nhạc lễ Cao Đài
xuất phát từ ba nguồn: từ ông [Lê Văn]
Lịch, một môn đồ Minh Sư, ông
Vương Quan Kỳ là người đă
học được nhạc từ Minh Lư và từ
Ngô Văn Chiêu, và từ những chỉ dạy
trực tiếp từ Cao Đài thông qua đàn cơ.”
Lẽ
ra nói về nhạc lễ Cao Đài th́ Oliver không nên
quên nhạc tài tử Nam Kỳ và những người
như các tiền bối Cao Quỳnh Diêu, Cao Hoài
Sang, Phạm Công Tắc...
Tiền bối Phạm Công Tắc
(1890-1959),
một trong những vị tiền khai của ĐĐTKPĐ, cũng là một nghệ sĩ nhạc truyền thống dân tộc.
Ảnh của Gabriel GOBRON (1948)
Bỏ
qua những lỗi nói trên, khi xét về tổng
thể quyển Caodai
spiritism có thể nói rằng Oliver đă cố
gắng tŕnh bày đúng đắn về đạo
Cao Đài. Tuy thế, trước khi vào sách, ông cũng
thận trọng viết rằng: “…
tôi biết là quan điểm của công tŕnh nghiên
cứu này sẽ không làm hài ḷng tất cả
những bạn bè Cao Đài của tôi. Tuy nhiên,
đầy hy vọng là quyển sách quả thực
đă hoàn thành lời hứa của tôi với các
bạn ấy rằng tôi sẽ vẽ lên một chân
diện mục của đạo Cao Đài.”
Victor
L. Oliver đă dành nhiều thiện cảm đối
với nền Đạo. Đơn cử một trường
hợp điển h́nh, đó là quan điểm
của ông về số tín đồ Cao Đài
(pp. 41-42). Xưa nay, khi nêu con số tín đồ Cao
Đài, các tác giả thường không nhất trí
với nhau, đôi khi có người c̣n dựa vào
số tín đồ do một chức sắc công
bố để mà lên tiếng công kích đạo
Cao Đài. Thử nêu vài số liệu:
-
Năm 1926: theo Nguyễn Văn Tâm,
trong sáu tháng có khoảng 30.000 người nhập môn;
đến tháng 10, có 50.000 người.
-
Năm 1927: theo Louis Marty, Giám đốc Chánh trị
sự vụ kiêm Chánh Mật thám Đông Dương,
tín đồ Cao Đài là 100.000 người.
-
Năm 1928: Theo Maurice Monribot, khoảng 200.000 tín đồ;
theo báo L’opinion, số
tín đồ là 700.000 người;
theo tiền bối Lê Văn Trung, có trên 1.000.000 tín
đồ.
-
Năm 1930: Theo Louis Marty, có hàng vạn tín đồ;
theo Gustave Meillon, có khoảng 500.000 tín đồ;
theo Ellen J. Hammer, có trên 1.000.000 tín đồ.
-
Năm 1931: Theo Nguyễn Trần Huân, khoảng 500.000
tín đồ.
-
Năm 1932: Theo G. Abadie, trên 1.000.000 tín đồ.
Tạm
dừng các số liệu ở năm 1932. Có thể
thấy rơ từ 1926 đến 1932, chẳng ai nói
giống ai. Dường như người ủng
hộ Cao Đài th́ muốn nâng con số cho cao lên;
ai chống Cao Đài th́ cố ư kéo con số
thấp xuống. Lư giải vấn đề này,
Victor L. Oliver viết rành mạch như sau:
“Về
sức mạnh thực sự của đạo Cao
Đài biểu hiện qua số tín đồ từ
năm 1925 đến 1932, sự bất đồng ư
kiến dường như cho thấy rơ rằng
ở một số người đă ngại
ngần không muốn thừa nhận sự thành công
của đạo Cao Đài. Về mặt khác,
những con số phóng đại của những người
khác lại gợi cho thấy một tư thế pḥng
thủ khi đối diện với sự công kích
nền Đạo. Những số ước lượng
được thổi phồng này là một nỗ
lực nhằm phô trương quá mức sự thành
công của Đạo và nhằm tạo ra trước
công chúng một h́nh ảnh về Đạo tốt
đẹp hơn. Tác giả [Oliver]
tin rằng con số tín
đồ Cao Đài (người lớn và trẻ
em) vào năm 1930 dè dặt ước lượng là
500.000 người. Trong bất kỳ trường
hợp nào, ngay cả với con số ước lượng
khiêm tốn nhất, th́ sự thành công mau lẹ
của Cao Đài trong những năm đầu tiên
là có ư nghĩa.”
Thái
độ đó của Oliver cho thấy ông đă
cảm thông được tâm cảnh của người
xưa.
°
Ở
các trang 20, 22, 23 Victor L. Oliver cho rằng đạo Cao
Đài chịu ảnh hưởng của ba nền văn
hóa: văn hóa Trung Quốc; văn hóa Ấn Độ,
và văn hóa Pháp. Ông cũng không quên nói rằng
sự ra đời của đạo Cao Đài c̣n
do ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa
Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Theo ông, có
năm ảnh hưởng tác động:
1.
Tinh thần tổng hợp tôn giáo (religious
syncretism).
Nông
dân Việt Nam không thấy khó khăn ǵ khi chấp
nhận Tam giáo (Thích, Lăo, Nho) cùng với tín ngưỡng
bản địa Việt Nam. Các tín ngưỡng này
không hề loại bỏ lẫn nhau. Ngược
lại, các tín ngưỡng này có tính tổng
hợp, phụ giúp nhau, và vay muợn lẫn nhau
về nghi lễ, giáo lư.
“Người
ta nói rằng tâm hồn hay tâm linh người
Việt được óc tổng hợp Tam giáo
chủ sử. Về xă hội, người Việt
Nam thường ứng xử theo Nho. Về quan điểm
tu hành, người Việt Nam thường theo
Phật, trong lúc về mặt thực tiễn, người
Việt Nam lại biểu hiện theo Lăo.”
“Người
Việt Nam không quen và không thể chấp nhận
một giáo điều nào cho rằng chỉ có
một tôn giáo duy nhất thủ đắc
được chân lư.”
“(…)
Trong hai mươi lăm
năm đầu thế kỷ 20, có một sự
bất ổn trong các tôn giáo lớn ở Việt
Nam. Sự bất ổn này không phải là hiện tượng
đột biến mà nó là một hậu quả
tất yếu của t́nh trạng suy thoái và
kiệt quệ.”
2.
Ḷng yêu nước chống thực dân (anti-colonial
expression).
“Vào
những năm cuối thế kỷ 19, ḷng yêu nước
chống Pháp, ủng hộ các hoạt động giành
độc lập bắt đầu diễn ra ở
Việt Nam. Tôn giáo có tầm quan trọng chủ
yếu trong những hoạt động chống
thực dân.”
Trong
những năm 1880-1930, đối với giới tu sĩ
và cư sĩ người Việt, việc tham gia các
tôn giáo để nổi dậy chống thực dân
là việc b́nh thường.
3.
Các hội kín (secret societies).
“Cùng
thời kỳ những năm 1880-1930 lại cho
thấy xuất hiện nhiều hội kín. Các
hội kín này có liên quan tới những nỗ
lực nhằm đánh đuổi giặc Pháp ra
khỏi Việt Nam.”
“Sau
khi đạo Cao Đài phát triển thành một
tổ chức mạnh mẽ, có đông đảo
quần chúng gia nhập, th́ đạo Cao Đài
trở thành mục tiêu công kích của những người
chỉ trích, cho rằng đạo Cao Đài là
một hội kín, chống Pháp, có tinh thần
quốc gia mạnh mẽ, và ẩn ḿnh bằng cách
đội lốt tôn giáo.”
4.
Các chi đạo Minh (the Minh organizations).
Năm
chi Minh Sư, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Lư
và Minh Tân có những tính chất như nhau: (1) đều
là tổ chức tôn giáo; (2) đều là tổ
chức
có tính thông linh
(spiritistic); (3) đều có tính tổng hợp trong
đức tin giáo lư và thực hành nghi lễ; (4)
đều có mối liên
hệ với đạo Cao Đài, trước
hoặc sau khi Đạo ra đời.
5.
Sự chú trọng đến tín ngưỡng thông
linh (emphasis on spiritism).
Cơ
bút do truyền thống Á Đông (Việt Nam và Trung
Quốc). Xây bàn do sách vở châu Âu. (p.
29)
°
Victor
L. Oliver cũng đồng ư với các nhà nghiên
cứu rằng đạo Cao Đài là tôn giáo
tổng hợp (p. 1). Tính tổng hợp của
đạo Cao Đài thể hiện trong: cơ
cấu tổ chức, triết lư, giáo lư, nghi
lễ. Sự tổng hợp các yếu tố
lấy từ các tôn giáo khác được thể
hiện ở đạo Cao Đài là: đời
sống ly gia của chức sắc (priestly
celibacy); ăn chay; cầu cơ; thờ cúng tổ
tiên; cầu siêu cho người chết; ḷng
nhiệt thành truyền giáo; các thời khóa tu
tập thiền định.
Nhận
định về các phái Cao Đài, Oliver
viết: “Sự phát
triển các phái Cao Đài vừa trợ giúp vừa
cản trở nền Đạo. Một số tín
đồ Cao Đài cho rằng sự bất đồng
và phân rẽ trong đạo Cao Đài là không tránh
khỏi, v́ đă do Thiên định; dù người
ta có chấp nhận luận điệu này hay không,
th́ cũng chẳng quan trọng. Vấn đề
thật sự là những hậu quả của phái
đối với đạo Cao Đài.”
Oliver
nh́n thấy hai phương diện thuận lợi và
bất lợi trong quá tŕnh phân hóa ra các phái Cao
Đài:
1.
Thuận lợi
“Sự
h́nh thành các phái mới dường như đă
trợ giúp cho Đạo. Các bất đồng ư
kiến đă buộc tạo ra các phái mới và các
tổ chức khác. Các phái và tổ chức này
lần lượt đưa đến sự mở
rộng việc truyền giáo, và kết quả là có
thêm nhiều tín đồ mới. Trong hai hay ba
thập niên qua đạo Cao Đài đă trở nên
một lực lượng xă hội và tôn giáo quan
trọng ở Việt Nam.”
“Hơn
nữa, sự xuất hiện của các phái và
tổ chức Cao Đài mới chắc chắn đă
giúp phát triển nền tảng triết học
của Đạo. Những người Việt Nam không
muốn theo sự độc đoán của Tây Ninh
đă có được sự lựa chọn để
lên tiếng trong các sách vở, hội nghị. Đối
với người đă nhập môn hay chưa
nhập môn Cao Đài th́ Tây Ninh không c̣n là một
lựa chọn duy nhất có sẵn; [v́] c̣n có
sự thu hút của Truyền giáo Cao Đài ở
Đà Nẵng với quan điểm quân b́nh hơn,
hay của Chiếu Minh Tam Thanh với sự chú
trọng về nội tu.”
2.
Bất lợi
“Trên
phương diện khác, sự phát triển các phái
Cao Đài cũng là lực lượng làm suy
yếu Đạo. Nó tạo ra nhiều phái lớn,
nhỏ (trên năm mươi). Nhiều phái không
thể tồn tại v́ thiếu ổn định và
thiếu tín nhiệm. Điều này làm mất uy tín
cho toàn Đạo, cả trong ánh mắt quần chúng
lẫn trong tâm tưởng của người tín
đồ Cao Đài. Đi cùng với sự phân chi
rẽ phái là sự sái chân truyền, làm nảy sinh
ḷng nghi kỵ và t́nh cảm ghẻ lạnh giữa
các phái với nhau. Khi mà người Cao Đài
cần một mặt trận thống nhất để
gây được ảnh hưởng (…) th́ họ
lại chia rẽ. Sự bất đồng quan điểm
làm cho Tây Ninh mất đi những con người ṇng
cốt, những sự đấu đá tương
tàn phát triển v́ thiếu đoàn kết và
thiếu ḥa hiệp giữa các đàn anh lănh đạo.”
3.
Về sự thống nhất các phái
“Trên
lập trường tôn giáo, một tôn giáo Cao Đài
thống nhất tạo ra những cơ hội để
phát triển những chương tŕnh ấp ủ
từ lâu mà hiện vẫn c̣n là mộng hơn là
hiện thực...”
“...
sự thống nhất sẽ tạo cơ hội
để bổ nhiệm vào các vị trí trọng
yếu những nhân sự được đào
tạo, chọn lọc và kinh nghiệm; những
vị trí này từ nhiều năm bị bỏ
trống v́ thiếu những con người xứng
đáng. Sự thống nhất về tổ chức
sẽ giảm thiểu tối đa các vấn đề
quản trị và tài chánh của Đạo. Sẽ
có cơ hội để sửa chữa những thái
độ sai lầm, những nghi kỵ, và những
lời lẽ cay đắng của những
năm xưa.
“Tuy
nhiên hoàn cảnh thực tại cho thấy dù
thống nhất là có lợi, thống nhất
sẽ không xảy ra trong một tương lai
khả dĩ đoán trước.”
Viết
về thống nhất các phái Cao Đài, Victor L.
Oliver không quên liên hệ tới Cơ quan Phổ
thông Giáo lư. Ông viết:
“Tại
một hội nghị bàn về thống nhất do Cơ
quan Phổ thông Giáo lư chủ xướng vào tháng
2-1971, rơ ràng là phần nhiều các thảo luận
chỉ là nói suông. Thậm chí lời kêu gọi
cụ thể hăy có những đề nghị
thực tế cũng chỉ mang lại những
kết quả vô nghĩa; chỉ có được
một đề nghị cho kỳ họp tới
để tất cả các phái và tổ chức Cao
Đài đều có người đại
diện.”
“Những
tín đồ trẻ tuổi, kể cả các
chức sắc chức việc của nhiều phái
khác nhau, phát biểu rằng thống nhất chỉ
có thể tới khi nào lớp đàn anh già nua trong
các tổ chức khác nhau qua đời. Những hy
vọng thống nhất được gắn
liền với triển vọng có được các
bậc lănh đạo mới, có những tri thức
mới, và những quan điểm mới.”
Oliver
đánh giá rằng Cơ quan đă thất bại
khi không làm được ǵ nhiều để thúc
đẩy sự nghiệp thống nhất Cao Đài;
Cơ quan đă không thể kiến lập được
mối quan hệ có ư nghĩa với hai phái Cao Đài
quan trọng là Tây Ninh và Bến Tre.
Nhận
định hoạt động của Cơ quan,
Oliver c̣n viết: “Thực
ra, Phổ thông Giáo lư đă trở nên một
tổ chức khác nữa của Cao Đài, Cơ
quan vững vàng hơn và ổn định hơn các
nhóm Cao Đài trước kia nhưng lại cho
thấy thành quả ít oi sau chín năm hiện
hữu.”
Điều đáng lưu ư ở đây là mấy
chữ “trở nên
một tổ chức khác nữa của Cao Đài –
has become one more Caodai organization” của Oliver dễ
khiến có người sẽ ngộ nhận
rằng Cơ quan ra đời để làm một
“nhóm” thứ ngàn lẻ một!
Viết
về Cơ quan Phổ thông Giáo lư Oliver dành ra
bốn trang trong tổng số chín trang của chương
Năm: Attempts at reunification (Những nỗ lực
thống nhất các phái). Oliver viết rằng “…
mục tiêu đầu tiên của Cơ quan là
kết hợp những người Cao Đài có năng
lực hiến ḿnh cho việc nghiên cứu tôn giáo và
triết lư.”
Trước
đó, khi nói về quan niệm Phật mẫu trong
đạo Cao Đài (p. 8), Victor L. Oliver cũng
nhắc đến Cơ quan Phổ thông Giáo lư, và
ông cho rằng [so với các cộng đồng Cao
Đài khác] th́ nhân viên Cơ quan có
nhiều tính triết lư hơn (the more philosophical
Caodaists).
Oliver
giới thiệu sơ đồ tổ chức
của Cơ quan với tên những nhân sự
buổi đầu như Huệ Lương (Trần
Văn Quế), Chơn Tâm (Nguyễn Triệu Kha),
Thiện Bảo (Ngô Chí B́nh), Ngọc Kiều (Lê
Thanh Kiều)... Ông cũng biết khi xưa mỗi
nhiệm kỳ hành đạo của Cơ quan là hai
năm (p. 108).
Vô
ngă kiểm của
nhân viên Cơ quan được ông giới
thiệu khá kỹ. Ai đó đă cung cấp cho ông
một cách vẽ đồ thị để tính công
(vẽ mực đỏ) và tội (vẽ mực
đen) khi làm vô ngă kiểm (p. 109).
°
Mở
đầu quyển Caodai
spiritism, Victor L. Oliver nhắc đến Herbert
Blumer. Trong một tác phẩm in năm 1951, Blumer định
nghĩa rằng một phong trào xă hội là một
việc làm táo bạo mang tính tập thể nhằm
thiết lập cho đời sống một trật
tự mới. Victor L. Oliver cho rằng lời nói
của Blumer rất thích hợp để miêu tả
đạo Cao Đài.
Với
những ḍng kết thúc quyển Caodai
spiritism, Oliver viết: “Về
mặt lịch sử, đạo Cao Đài có
một vai tṛ năng động và ư nghĩa trong các
phạm vi tôn giáo, xă hội, chính trị Việt
Nam. (...) Tuy nhiên, là một phong trào tôn giáo-xă
hội Việt Nam mang tính bản địa và độc
đáo, đạo Cao Đài tiêu biểu cho một
kỷ nguyên sôi động trong lịch sử
Việt Nam: [Đạo Cao Đài là] một kỷ
nguyên và một phong trào cần được nghiên
cứu và không được bỏ quên.”
Nhập
đề và kết luận của Victor L. Oliver
chắc sẽ làm nhiều người Cao Đài suy
nghĩ. Do hoàn cảnh lịch sử nền Đạo
gắn chặt với lịch sử dân tộc
Việt Nam, Oliver cũng như người sau ông là
Jayne Susan Werner, họ đều thấy nổi
cộm lên ở tôn giáo Cao Đài khía cạnh mà
Werner gọi là “phong trào chính trị-xă hội” (socio-political
movement) c̣n Oliver gọi là “phong trào tôn giáo-xă
hội” (socio-religious
movement). Cho tới nay dường như vẫn chưa
có tác giả và tác phẩm nào ở nước ngoài
biết nhấn mạnh đúng mức và đúng
đắn các khía cạnh triết lư và giáo lư
của Cao Đài. Nếu coi đó là chỗ
thiếu sót hiện nay của Oliver cũng như các
nhà nghiên cứu quốc tế khác, th́ càng không
thể quên lời nói của Ralph Bernard. Smith
rằng: “Trong một chừng mức nào đó, chính người
đạo Cao Đài phải chịu trách nhiệm
về việc người phương Tây thiếu
hiểu biết đạo Cao Đài.”
LÊ
ANH DŨNG
(03-8-2003)
“In effect, the Pho Thong Giao Ly has become one more Caodai
organization, more stable and permanent than former groups but with
little success to show for its nine years of existence.” (p. 111)
|