Bước đầu thử nhận xét

Mấy nét tâm lư của người tín đồ Cao Đài

LÊ ANH DŨNG

Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa G̣ Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần h́nh thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lư và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đă h́nh thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong t́nh cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lư của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lư là những đặc điểm về t́nh cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]

Khi nghiên cứu tâm lư của người tín đồ Cao Đài, cũng cần lưu ư rằng:

1. Nghiên cứu tâm lư của người tín đồ Cao Đài khác với nghiên cứu những đặc điểm tâm lư của cộng đồng dân cư Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20 đă khiến cho dân Nam Kỳ mau lẹ và đông đảo đi theo đạo Cao Đài.[3]

2. Qua nghiên cứu tâm lư của người tín đồ Cao Đài cũng có thể nhận diện được một số đặc điểm tâm lư dân tộc của người Việt, bởi lẽ đông đảo tín đồ Cao Đài qua gần tám thập niên đă có mặt khắp đất nước, từ hầu hết các tỉnh trong Nam ra miền Trung, rồi Hà Nội và một số tỉnh, thành miền Bắc, nghĩa là đă trở thành một phần của cộng đồng cư dân Việt Nam.

°

Phần đông người tín đồ Cao Đài rất dễ mủi ḷng. Những khi đọc thánh giáo hay nhắc lại thánh ngôn, họ rất dễ xúc động một cách chân thành, có thể ứa nước mắt một cách tự nhiên. Có dịp dự các buổi thuyết minh giáo lư ở các thánh thất, thánh tịnh, v.v... thính giả sẽ có dịp chứng kiến những giọt lệ, hoặc trên mặt thuyết tŕnh viên đang đứng ở bục giảng, hoặc trên mặt người nghe đang ngồi ở các hàng ghế trong hội trường.

Cho nên, nếu muốn xét xem một tín đồ Cao Đài có c̣n mặn mà với Đạo hay không, có thể chú ư tới phản ứng t́nh cảm, tâm lư của họ những khi đọc, nghe, nhắc tới lời dạy trong thánh giáo, thánh ngôn Cao Đài.

Ngoài đặc điểm tâm lư này, thử xem c̣n có cái ǵ khác cũng là nét tâm lư của người tín đồ Cao Đài. Ở đây tạm nêu ra năm nét lớn, dễ nhận thấy. Chắc chắn ngần ấy vẫn chưa đủ, và cách gọi tên cho năm nét tâm lư này có thể chưa chuẩn xác lắm, cần được bổ túc và sửa chữa sau này.

I. Tính mở (openess)

Tính mở bắt nguồn từ truyền thống khoan dung tôn giáo (religious tolerance) của người Việt, từ truyền thống Tam giáo đồng nguyên như một hệ quả của cuộc giao lưu văn hóa Việt-Hoa. [4]

Tính mở cũng bắt nguồn từ đặc điểm địa lư, đặc điểm đa văn hóa và đa tín ngưỡng của Nam Kỳ, cái nôi của đạo Cao Đài. [5]

Tính mở cũng bắt nguồn từ chủ trương vạn giáo nhất lư của đạo Cao Đài, từ chủ trương rằng tất cả giáo chủ, giáo thuyết đều có một nguồn cội là Thượng đế. Tại chùa Vĩnh Nguyên (làng Long An, quận Cần Giộc, tỉnh Chợ Lớn), [6] ngày 07-4-1926 đức Cao Đài dạy:

Ngọc Hoàng Thượng đế

viết Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.

Nhiên Đăng Cổ phật thị Ngă.

Thích Ca Mâu Ni thị Ngă.

Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngă.

Kim viết Cao Đài. [7]

(Ngọc Hoàng Thượng đế

tức là Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.

Nhiên Đăng Cổ phật là Ta.

Thích Ca Mâu Ni là Ta.

Thái Thượng Nguơn Thỉ là Ta.

Nay gọi là Cao Đài.)

Tính mở cũng bắt nguồn từ tính tổng hợp với chủ trương kết tinh kim cổ dung ḥa đông tây của giáo lư Cao Đài. [8]

· Mặt tích cực của tính mở

Khi đă chấp nhận giáo chủ Cao Đài (Trời) cũng là Thích Ca (Phật), là Thái Thượng (Lăo), v.v...; khi đă chấp nhận một Thiên bàn (bàn thờ Cao Đài) trên thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (Trời, tượng trưng bằng Thiên nhăn), bên dưới là Tam giáo Tổ sư (Thích Ca, Lăo Tử, Khổng Tử), Tam trấn Oai nghiêm đại diện cho Tam giáo (Quan Âm, Lư Thái Bạch, Quan Thánh), Chúa Giê-xu (Thánh đạo) và Khương Thái công (Thần đạo), th́ rơ ràng người tín đồ Cao Đài không thể dị ứng với các giáo lư, tín ngưỡng khác. Cho nên không lạ khi thấy một trong những ấn phẩm đầu tiên của đạo Cao Đài, ra đời ngày 15-10-1926, là Phổ cáo chúng sanh Đại đạo Tam kỳ phổ độ, ngoài b́a vẽ h́nh Thích Ca ngồi giữa, hai bên là Khổng Tử và Lăo Tử.[9]

 

Thế nên, khi đứng trước một bàn thờ hay tượng thờ của một tôn giáo khác, người tín đồ Cao Đài cũng thành kính tự nhiên như lúc đối diện với thánh tượng Thiên nhăn trên thiên bàn của tôn giáo ḿnh.

Cũng vậy, khi nói chuyện giáo lư, người tín đồ Cao Đài không hề tự g̣ bó ḿnh, không tự giới hạn ḿnh trong nguồn thánh giáo Cao Đài mà trái lại họ thường có xu thế viện dẫn một cách thích thú và tự nhiên các điển tích thông dụng của Nho, Thích, Lăo, Gia Tô giáo...[10]

Với tính mở của ḿnh, người tín đồ Cao Đài sẵn có ưu điểm rất nhân bản là họ không thể mắc phải tệ phân biệt, kỳ thị tín ngưỡng, văn hóa, chủng tộc...

II. Tính nhiệt thành (enthusiasm)

1. Tính nhiệt thành bắt nguồn từ ư thức hăng say làm công quả. Công quả là phụng sự vô vị lợi cho người khác. Giáo lư Cao Đài đề cao công quả, dạy rằng thế gian là trường thi công quả; con người muốn thi đậu (thành tiên phật) th́ phải làm công quả. Không công quả, không t́m cách giúp đời, trả nợ nhân quần th́ không mong giải thoát.

Tại thánh thất Cầu Kho, ngày 05-3-1927, đức Cao Đài dạy: “Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng hễ vào Đạo th́ phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo [công phu: tu thiền, tịnh luyện]. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong, th́ không thể nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả th́ chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế này th́ t́m cách khác mà làm âm chất...”.[11]

2. Trong nhiều h́nh thức công quả có một công quả rất lớn là “độ” [12] cho người khác cũng giác ngộ để vào Đạo tu học (nhập môn), và mỗi một tín đồ cần độ ít nhất là mười hai người vào Đạo, thực hành lời dạy của đức Cao Đài ngày 27-8-1926 (20-7 Bính Dần): “... buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là mười hai người.” [13] Đó cũng là yếu tố khiến cho hầu hết tín đồ Cao Đài thường có tính nhiệt thành truyền giáo (enthusiasm for proselytization) cho dù họ không phải là giáo sĩ được đào tạo chuyên nghiệp.

· Mặt tích cực của tính nhiệt thành

a. Tính nhiệt thành công quả khiến cho người tín đồ Cao Đài giàu tinh thần làm công tác xă hội một cách vô vị lợi (nếu như có mong lợi, cũng chỉ là mong về tâm linh, được giải thoát, hoặc hưởng phước vô vi, tạo âm chất...). Trong một xă hội từng bị chiến tranh tàn phá, nhiều cảnh nghèo đói và thương đau, tính nhiệt thành công quả này có mặt rất tích cực là giúp đỡ đồng đạo và đồng bào ruột thịt. Đối với tín đồ Cao Đài đó là nhân đạo làm nền tảng cho thiên đạo: Dục tu thiên đạo, tiên tu nhân đạo; nhân đạo bất tu, thiên đạo viễn hỹ. (Muốn tu đạo trời [giải thoát] trước nên tu đạo làm người; không tu đạo làm người th́ cách xa đạo trời vậy.)

Ngày 20-02-1926 đức Cao Đài dạy:

Vào ṿng huynh đệ khá thương nhau,

Một đức trổi hơn một phẩm cao.

Chí quyết thiên đường men bước tới,

Phải nhiều máu thịt mới đồng bào. [14]

b. Tính nhiệt thành truyền giáo khiến cho người tín đồ Cao Đài sẵn tinh thần xả thân hành đạo, do đó đạo Cao Đài phát triển nhanh về quy mô ngay trong buổi sơ khai. Tổ chức giáo hội (hội thánh) non trẻ không giàu về tiền bạc, nghèo cả về cơ sở vật chất, thế mà mỗi khi có một công cuộc ǵ lớn lao th́ bổn đạo tự nguyện gom sức người sức của vào rất mau và rất hăng hái. [15]

III. Tính kham nhẫn lạc quan (optimistic patience)

1. Tính kham nhẫn lạc quan của người tín đồ bắt nguồn từ sự thấm nhuần lư nhị nguyên (dualism) trong giáo lư Cao Đài, rằng muôn việc chi ở thế gian cũng là song hành hai mặt tương phản, [16] cho nên nỗi khổ đau không thể tách rời khỏi niềm hạnh phúc. Tính kham nhẫn lạc quan cũng bắt nguồn từ đức tin về luật nhân quả: con người phải trả quả cho các nhân xấu trong kiếp trước, thậm chí nếu muốn mau trả hết nghiệp quả trong kiếp này để chóng sạch nợ tiền khiên, sớm được nhẹ nhàng giải thoát về cơi trời th́ phải chịu nhồi quả, tức là thay v́ dần dần trả nợ góp, phải trả dồn dập một lần cả vốn lẫn lăi, thế nên thân thế đành chịu vô cùng lao đao, điên đảo... Trong bài Kinh hộ mạng của tín đồ Cao Đài có hai câu kết phản ánh rất rơ tính kham nhẫn lạc quan này:

Cam ḷng với cảnh thuyền xê,

Có Thầy [Trời] con trẻ ủ ê chi mà.

2. Với đức tin tuyệt đối nơi Trời và luật nhân quả, người tín đồ Cao Đài hiểu thêm rằng mọi nghịch cảnh mà họ giáp mặt hôm nay không hề là chuyện vô căn vô cớ. Nếu chẳng v́ trả nợ nần kiếp trước th́ cũng là sự thử thách tâm chí can trường của người tu cho xứng đáng là học tṛ đủ đầy đạo hạnh của Thượng đế. Ngày 13-3-1926 đức Cao Đài dạy:

       “Muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu th́ Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ của Thầy th́ là Bạch ngọc kinh [nơi Thượng đế ngự] mới chịu rước, c̣n ngă th́ cửa địa ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!

       “Bởi vậy cho nên Thầy chẳng v́ ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng v́ thương mà không sai quỷ dỗ dành. Thầy nói trước cho các con biết mà giữ ḿnh: chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đă thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi giục chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đă cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con.” [17]

· Mặt tích cực của tính kham nhẫn lạc quan

Do tính kham nhẫn lạc quan người tín đồ Cao Đài khi đối mặt với nghịch cảnh, cho dù phũ phàng nhất, vẫn có thể cam ḷng ẩn nhẫn sống, ǵn giữ thân mạng để tu hành. Có thể nói rằng thái độ bi quan, tuyệt vọng đến mức phải tự tử là việc rất hiếm thấy trong cộng đồng Cao Đài.

IV. Tính dân chủ hay b́nh đẳng (characteristic of democracy or equality)

Mặc dù hội thánh Cao Đài được thiết lập với hệ thống chức sắc, giáo phẩm tinh vi, mang tính tổ chức vững chắc,[18] nhưng trong thực chất đạo Cao Đài là một cộng đồng mang tính gia đ́nh rất sâu đậm. Cơ cấu thấp nhất của hành chánh đạo (Caodaist administration) là thánh thất (nhà thánh, holy house), và ngày 18-9-1926 nó được đức Cao Đài định nghĩa: “Thầy đă lập thành thánh thất, nơi ấy là nhà chung của các con...” [19]

Tính dân chủ hay b́nh đẳng trong tâm lư của người tín đồ Cao Đài đă bắt nguồn từ tính gia đ́nh sẵn tiềm tàng trong tổ chức Hội thánh, trong cách xưng hô giữa các đấng Thiêng liêng với tín đồ, giữa đồng đạo với nhau.

Theo luật lệ Cao Đài (Tân luật), các chức sắc đối với tín đồ là anh chị lớn đối với em nhỏ; phẩm Giáo tông (Pope) cao tột trong hệ thống Cửu trùng đài cũng chỉ là Anh Cả...[20] Trong cách xưng hô giữa tín đồ với nhau, tùy theo vai vế, tuổi tác mà gọi bạn đạo là anh lớn, chị lớn, đạo huynh, đạo tỷ, đạo đệ, đạo muội.

Đến như đấng Giáo chủ Cao Đài là Trời, là Ngọc Hoàng Thượng đế mỗi khi đến với tín đồ vẫn chỉ xưng ḿnh là Thầy, là Cha; các tiên thánh, bồ tát đến dạy đạo cũng gọi tín đồ là hiền đệ, hiền muội, coi những kẻ phàm trần ấy là em trong nhà.

Với tín đồ Cao Đài, đức Diêu Tŕ Kim mẫu (Phật mẫu) là Mẹ và khi vào đền Phật mẫu chầu lễ Mẹ, các chức sắc không được mặc áo măo (phẩm phục), tất cả chỉ mặc quần và áo dài trắng, chỉ đội khăn đóng đen (phái nam) hay lúp trắng (khăn vải trùm đầu phái nữ), [21] đơn sơ như một tín đồ thông thường. Ư nghĩa căn bản của quy tắc này là: khi về với Mẹ, tất cả con cái đều ngang hàng như nhau.

· Mặt tích cực của tính dân chủ hay b́nh đẳng

Tính dân chủ hay b́nh đẳng trong cộng đồng Cao Đài khiến cho trong mối quan hệ giữa cấp dưới với cấp trên không có sự sợ sệt, quỵ lụy. Hệ quả là ḷng tôn kính, tùng phục đàn anh đàn chị trong đạo Cao Đài không phải do h́nh thức áo măo, chức vụ (phần bên ngoài) mang lại mà chính là do t́nh thương chân thật, do đạo hạnh gương mẫu và tâm đức ngời sáng của đàn anh đàn chị (phần bên trong)...

V. Tính lăng mạn (romantic characteristic)

1. Lăng mạn được hiểu theo nghĩa là “có nhiều tư tưởng lư tưởng hóa hiện thực và nuôi nhiều ước mơ về tương lai xa xôi.” [22] Tính lăng mạn của người tín đồ Cao Đài sớm có ngay từ khi mới h́nh thành nền tôn giáo, được nuôi dưỡng và củng cố bằng đức tin mănh liệt với các thánh giáo Cao Đài đặc biệt nói trước về một tương lai kỳ vĩ, không riêng cho dân tộc Việt Nam mà sẽ từ cái nôi Việt Nam lan rộng ảnh hưởng ra khắp thế giới, cho cả nhân loại cùng hạnh hưởng.

Phụng gáy non Nam, Đạo trổ ṃi,

Trổ ṃi nhơn vật bốn phương trời.

Trời Âu biển Á chờ thay sắc,

Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi. [23]

2. Tính lăng mạn của người tín đồ Cao Đài bắt nguồn từ t́nh dân tộc, ḷng yêu nước. Trong khi đất nước Việt Nam vẫn c̣n đang bị thực dân Pháp chia làm ba mảnh là Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ, th́ ngày Rằm tháng 9 năm Bính Dần (21-10-1926), người tín đồ đă được đức Cao Đài (Thầy) dạy rằng:

Từ đây ṇi giống chẳng chia ba,

Thầy hiệp các con lại một nhà.

Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,

Chủ quyền Chơn đạo một ḿnh Ta. [24]

3. Tính lăng mạn ấy cũng bắt nguồn từ ḷng tự hào dân tộc. Ngay từ giữa thập niên 20 của thế kỷ 20, những người đang mang thân phận một dân tộc nô lệ dưới ách thống trị xiềng xích của thực dân Pháp lại được đức Cao Đài dạy rằng tuy nhược tiểu, tuy mất nước, nhưng Việt Nam sẽ sớm mở hội Niết bàn, tức là sẽ có một cảnh thiên đàng tại thế:

Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!

Tiểu quốc tảo khai hội Niết bàn. [25]

(Tốt thay nước Nam! Tốt thay nước Nam!

Nước nhỏ mà sớm mở hội Niết bàn.)

Đến với một tôn giáo trẻ, người tín đồ Cao Đài đă sớm được thánh giáo gieo đức tin rằng đạo Cao Đài mai sau sẽ là Quốc đạo, sẽ là đạo riêng của nước Nam. Đức Cao Đài dạy:

Từ thử nước Nam chẳng đạo nhà,

Nay Ta gầy dựng lập nên ra. [26]

Ngày 18-9-1926: “Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo [mà] Thầy [đức Cao Đài] đă đến lập cho các con, gọi là Quấc đạo.” [27]

4. Tính lăng mạn của người tín đồ Cao Đài cũng bắt nguồn ở đức tin rằng đạo Cao Đài (Đại đạo Tam kỳ Phổ độ) là phương tiện cứu độ sau cùng của nhân loại do Trời ban riêng cho dân tộc được chọn và dân tộc này có sứ mạng rất trọng đại và vinh dự trong Tam kỳ Phổ độ là phải cứu độ toàn nhân loại. Đức Cao Đài dạy:

Ngày 25-7-1926: “... trong Tam kỳ Phổ độ nầy các con phải độ rỗi cả nhơn loại khắp cả năm châu...” [28]

Ngày 13-12-1926: “Vốn Thầy lập nền chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu.” [29]

Ngày 17-01-1927: “Thầy lại đến lập trong nước các con một nền chánh đạo đủ tư cách độ rỗi chúng sanh. Các con và cả dân tộc các con v́ nơi Đạo mà đặng đoạt đến phẩm vị cao thượng...” [30]

· Mặt tích cực của tính lăng mạn

Có đặt ḿnh vào xă hội Nam Kỳ thời thuộc địa th́ sẽ thấy mặt tích cực nơi tính lăng mạn của người tín đồ Cao Đài. Tính lăng mạn này thỏa măn những ức chế của người dân mất nước, đánh mạnh vào ḷng tự hào của một dân tộc bất khuất và nuôi dưỡng ước vọng muốn được giải phóng để dân tộc ngửng cao đầu cùng năm châu bốn bể, rồi sẽ c̣n đem phong hóa nước Nam ảnh hưởng tới các dân tộc khác. Có thể nói rằng, tính lăng mạn trong thánh giáo Cao Đài hay trong tâm hồn người tín đồ Cao Đài cũng là một biểu hiện của truyền thống yêu nước. Phải chăng đó cũng là yếu tố khiến cho đạo Cao Đài sớm là nơi quy tụ những đồng bào yêu nước, một sự thực mà ngày nay các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều nh́n nhận. [31]

°

Nghiên cứu tâm lư của người tín đồ Cao Đài có lẽ hăy c̣n là vấn đề quá mới đối với cả trong và ngoài cộng đồng Cao Đài. Đây là một đề tài c̣n có thể tiếp tục nghiên cứu sâu rộng hơn tùy theo mục đích của các nhà nghiên cứu để có được những ứng dụng thích hợp với những nhu cầu cụ thể.

LÊ ANH DŨNG

(27-5-2000)

(Lê Anh Dũng là một người nghiên cứu về đạo Cao Đài rất nghiêm túc. Đọc bài của ông sẽ nhận ra nhiều khám phá đặc biệt bằng con mắt nh́n và cách diễn giảng qua ngôn ngữ Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Ông là nhà giáo, đồng thời là tác giả một số sách giáo khoa, văn học… bên cạnh những tác phẩm về đạo Cao Đài cũng như Tam giáo tại Việt Nam. Một số tác phẩm của ông -- kể cả các công tŕnh nghiên cứu về đạo Cao Đài) đă in thành sách, ghi âm vào băng cassettes / CD-rom, hoặc đă đăng trên các báo, tạp chí ở Hà Nội, Huế, Sài G̣n. Nhập môn ở Vĩnh Nguyên Tự , Cần Giuộc, Long An, gần 30 năm qua ông là nhân viên phụ trách công tác nghiên cứu, dịch thuật, và đào tạo giáo sĩ-tu sĩ tại CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LƯ CAO ĐÀI GIÁO VIỆT NAM mà danh xưng hiện nay là CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LƯ ĐẠI ĐẠO.

Tại hải ngoại bài trên đồng thời được in ở trang nhà của Thiên-Lư Bửu-Ṭa, Đường Về Đại Đạo và Tín Ngưỡng Á Châu.)


SÁCH BÁO THAM KHẢO

[Ban Tôn giáo 1993]. Ban Tôn giáo của Chính phủ CHXHCNVN (Pḥng Thông tin Tư liệu. Một số tôn giáo ở Việt Nam, “Đạo Cao đài”, Hà Nội.

[Đinh Văn Hạnh 1999]. Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa của người Việt ở Nam Kỳ. Tp. HCM: Nxb Trẻ.

[Đoàn Trung C̣n 1963]. Phật học từ điển, ba quyển. Sài G̣n: Nxb Phật học Ṭng thơ.

[Đông Nam Á 1995]. Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Việt Nam – Đông Nam Á: quan hệ lịch sử–văn hóa. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.

[Heritage 1994]. American heritage talking dictionary. 3rd edition (CD-rom).

[Hoàng Phê 1992]. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ.

[Nguyễn Công B́nh 1995]. Đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu phát triển. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội.

[Paulus Của 1895]. Huỳnh Tịnh Paulus Của. Đại Nam quấc âm tự vị. Tome I. A-L. Sài G̣n: Imp. Rey, Curiol & Cie.

[Pigneaux 1999]. Pierre Pigneaux de Béhaine (Bá đa lộc Bỉ nhu). Tự vị Annam Latinh (Dictionarium Anamitico Latinum 1772-1773). Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. Thành phố HCM: Nxb Trẻ.

[Phan Thị Yến Tuyết 1993]. Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội.

Phổ cáo chúng sanh Đại đạo Tam kỳ phổ độ. Sài G̣n: Imprimerie de l’Union, 1926.

[Thánh ngôn hiệp tuyển 1928]. Đại đạo Tam kỳ phổ độ. Thánh ngôn hiệp tuyển. Bổn thứ nhứt. Đinh Măo niên. Dakao Sài G̣n: Imprimerie Tam thanh.

[Thông tin 2-1999]. Tạp chí Thông tin khoa học và công nghệ. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên – Huế, số 2 (24).

[Thông tin 4-1999]. Tạp chí Thông tin khoa học và công nghệ. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên – Huế, số 4 (26).

[Werner 1981], Jayne Susan. Peasant politics and religious sectarianism: peasant and priest in the Cao Dai in Viet Nam. Connecticut: Monograph Series No. 23, Yale University Southeast Asia Studies.


Về các xuất xứ trích dẫn, thí dụ [Werner 1981: 4] có nghĩa là đoạn văn được trích ở trang 4, quyển sách của Werner in năm 1981. Về chi tiết quyển sách, xin đọc ở SÁCH BÁO THAM KHẢO sẽ thấy [Werner 1981], Jayne Susan. Peasant politics and religious sectarianism: peasant and priest in the Cao Dai in Viet Nam. Connecticut: Monograph Series No. 23, Yale University Southeast Asia Studies.

 

[1] Nay ở ấp Long Trung, xă Long Thành Trung, huyện Ḥa Thành, tỉnh Tây Ninh.

[2] Psychology: The emotional and behavioral characteristics of an individual, a group, or an activity. [Heritage 1994].

[3] “Không lâu sau khi thành lập, tôn giáo mới này đă có được đông đảo tín đồ ở khắp cả Nam Kỳ. Vào khoảng năm 1930, có từ năm trăm ngàn tới một triệu nông dân theo Đạo, trong lúc tổng số dân là bốn tới bốn triệu rưỡi.”

Nguyên văn: “Soon after its founding, the new religion gained a wide following throughout Cochinchina. Five hundred thousand to a million peasants were converted by 1930, out of a total population of 4 to 4.5 million.” [Werner 1981: 4].

“Số ước lượng tín đồ Cao Đài do Thống đốc Nam Kỳ cho biết, trong một báo cáo gởi Toàn quyền Đông Dương ngày 14-12-1934. Hồ sơ riêng của Thống đốc Pagès.”

Nguyên văn: “Estimate of Cao Dai following given by the French Governor of Cochinchina, in a report to the Governor General of Indochina, Saigon, 14 December 1934. Personal Files of Governor Pagès....” [Werner 1981: 72].

[4] Xem thêm: Lê Anh Dũng, Con đường Tam giáo Việt Nam. Nxb Thành phố HCM, 1994.

[5] A. Đặc điểm địa lư: Có người xem Nam Kỳ là vị trí ngă tư đường của các cư dân và các nền văn hóa, văn minh. [Đông Nam Á 1995: 17].

Có người nói Nam Kỳ đă sớm là vị trí hội tụ các luồng văn hóa Đông Tây, một giao điểm động, thoáng, và mở. [Phan Thị Yến Tuyết: 1993: 308-309].

Có người thấy rằng đồng bằng sông Cửu Long hai mặt giáp biển, trên cùng một châu thổ có những con sông chảy ngược chiều nhau. Nơi đây có sông đổ ra biển Đông, có sông đổ ra vịnh Thái Lan ở phía Tây, và những con sông đó lại được các con kênh nối với nhau, như thể nối nước chảy về bên Đông với nước chảy về bên Tây. [Nguyễn Công B́nh 1995: 25].

B. Đặc điểm đa văn hóa: Theo bản đồ Các dân tộc ở Việt Nam do Viện dân tộc học biên soạn có thể thấy rằng ngoài người Việt (Kinh) và Hoa (Hán) ra ở Nam Kỳ c̣n có bảy dân tộc sau đây: Khơ-me, Cơ Ho, Chăm [Chàm], Mnông, Xtiêng, Mạ Chu Ru.

Có người cho rằng sự giao lưu văn hóa không chỉ diễn ra giữa các dân tộc đang sinh sống ở Nam Kỳ mà c̣n với cả các dân tộc bên ngoài như Mă Lai, Xiêm La, Java...và có liên hệ với nền văn minh Nam Á đă lâu đời. [Phan Thị Yến Tuyết 1993: 14-16].

C. Đặc điểm đa tín ngưỡng: Có người tổng kết: “So với các nơi khác, Nam Kỳ là vùng đất có nhiều loại h́nh tôn giáo và số lượng tín đồ chiếm tỷ lệ cao nhất trong toàn quốc.” [Đinh Văn Hạnh 1999: 5].

[6] Nay thuộc xă Long An, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.

[7] Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, Thánh ngôn hiệp tuyển. Bổn thứ nhứt. Đinh Măo niên. Dakao Sài G̣n: Imprimerie Tam thanh, 108-110 Place Maréchal Foch, 1928, tr. 14. Bản in đầu tiên này có 102 tr.; sau đây sẽ gọi tắt là [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928].

[8] [Lê Anh Dũng 1996: 15].

[9] Không ghi tác giả, 14 trang (18x24 cm), Imprimerie de l’Union, Sài G̣n.

[10] Xem thêm bài Gia Tô giáo trong đạo Cao Đài.

[11] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 77].

[12] Độchèo thuyền đưa người qua sông mê vượt biển khổ. Độ (qua sông) chữ Hán có bộ thủy. Đoàn Trung C̣n dù thế vẫn giảng độ (không có bộ thủy) là: “Chở người ta bằng đ̣.” [Đoàn Trung C̣n 1963: 570].

[13] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 35].

[14] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 9].

[15] Hồ sơ lưu trữ (phông GouCoch) tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 2, thành phố HCM, c̣n cho thấy có những tín đồ nhiệt thành đă hiến cả nhà riêng, hiến luôn ruộng hương hỏa, v.v... để làm cơ sở xây dựng thánh thất Cao Đài.

[16] Ngày 13-3-1926 đức Cao Đài dạy về lư nhị nguyên: “Phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối; nếu không có thiệt th́ làm sao biết đặng dối; c̣n không có dối làm sao phân biệt cho có thiệt.” [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 13].

[17] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 13].

[18] [Werner 1981: 7] viết: “Hội thánh Cao Đài cũng được tổ chức quy củ, khác hẳn với cách tu hành đang phổ biến ở Việt Nam lúc bấy giờ. Dù rằng ở miền Nam đă có các giáo phái nhỏ thực hành bí giáo huyền môn và sử dụng đồng tử, những đạo giáo ấy đă không cho thấy mức độ tổ chức ngang tầm với đạo Cao Đài, cũng như không có được đông đảo tín đồ như đạo Cao Đài. Mỗi cấp chức sắc Cao Đài đều có được một chức năng nhiệm vụ riêng biệt và được quy định minh bạch, mà từng phương diện của chức năng nhiệm vụ ấy đều có một ư nghĩa biểu trưng.”

Nguyên văn: “The Cao Dai church was also highly organized, in contrast to prevailing religious practice in Viet Nam at the time. Although small religious sects practicing occultism and using mediums had existed in the south, they did not display the same degree of organization nor the mass following of the Cao Dai. Each Cao Dai priestly grade was endowed with a separate and well-defined function, every aspect of which held a symbolic meaning.”

[19] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 38].

[20] Xem thêm: Lê Anh Dũng, T́m hiểu ư nghĩa, nguồn gốc và cách dịch tên gọi các chức sắc Cửu trùng đài trong đạo Cao Đài. [Thông tin 2-1999: 52-60].

[21] Lúp một từ Việt cổ, được ghi trong [Paulus Của 1895: 607].

Paulus Của c̣n ghi: lúp đầu (lấy khăn mà che đậy trên đầu). che lúp (dùng lúp mà che phủ). đội lúp (đội khăn phủ đầu). khăn lúp (khăn dùng mà phủ đầu). Trước Paulus Của, Pierre Pigneaux de Béhaine khi soạn Tự vị Annam Latinh (1772-1773) đă ghi các từ: mũ lúp, lúp đầu. [Pigneaux 1999: 276].

[22] [Hoàng Phê 1992: 539].

[23] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 97].

[24] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 42].

Cũng rất thú vị là những ư tưởng đầy tính “quốc sự” như thế lại được chính thức xuất bản hai năm sau đó (1928) trên đất Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp. Thực tế ngày nay non sông Việt Nam đă liền một dải; đạo Cao Đài cũng đă truyền bá được khắp từ Nam ra Trung, ra Bắc. Sau tháng 4-1975, hoàn cảnh lịch sử xô đẩy dường như đă tạo điều kiện cho các thánh thất Cao Đài có mặt ở rất nhiều nước tại châu Á, Âu, Mỹ, Úc... Ba phần tư của bài thơ trên phải chăng đă thành hiện thực?

[25] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 86].

[26] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 98].

[27] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 38].

[28] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 28].

[29] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 55].

[30] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 64].

[31] A. [Werner 1981: 56] viết: “Sự khéo léo tổng hợp truyền thống Tam giáo và sự diễn giải minh bạch, chính xác truyền thống Tam giáo không những tạo ra sức hút văn hóa mănh liệt mà c̣n lôi cuốn được phong trào kháng [Pháp] gắn liền với truyền thống này và hăy vẫn c̣n sinh lực.”

Nguyên văn: “Its skillful synthesis and new formulation of the Tam giáo tradition not only offered great cultural appeal but it grew on the still vital protest movement associated with this tradition.” Xem thêm: Lê Anh Dũng, Vài nhận định về đạo Cao Đài của Jayne Susan Werner. [Thông tin 4-1999: 179-186].

B. Ban Tôn giáo của Chính phủ nhận định:

“(...) nhân dân Nam Kỳ trong cuộc đấu tranh chống áp bức cường quyền, (...) c̣n có những h́nh thức đấu tranh bằng tôn giáo. (Tôn giáo ở đây chủ yếu để tập hợp lực lượng.)” [Ban Tôn giáo 1993: 176].

“Vào những năm hai mươi của thế kỷ 20, (...) một nhóm tư sản, địa chủ, tiểu tư sản và công chức, trong đó có nhiều người có tinh thần yêu nước đứng ra vận động thành lập đạo Cao Đài với ư định tập hợp lực lượng quần chúng, chủ yếu là nông dân, chống lại sự kỳ thị chèn ép của thực dân Pháp.” [Ban Tôn giáo 1993: 174].

“Điều này làm rơ thêm đạo Cao Đài lúc mới ra đời lại mang những nội dung chống Pháp và thu hút đông đảo quần chúng tin theo.” [Ban Tôn giáo 1993: 176].

Asia-Religion.net